Chúa nhật XXXII Thường niên – Năm B
CHÚA GIÊSU VÀ GIỚI KINH SƯ
Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
***
Chúa Giêsu lại một lần nữa lên tiếng tố cáo các đối thủ là biệt phái và kinh sư. Ngài miệt thị những người hướng dẫn tâm linh quá kiêu căng này. Họ là những người có uy tín trong dân Do Thái những thái độ của họ khiếm nhã. Chúa Giêsu lên án sự phô trương phù phiếm của giới “thượng lưu” này khi họ tìm sự ngưỡng mộ nơi dân chúng (38b-39). Chưa hết, “Họ giành giật tài sản của các bà góa và làm bộ cầu nguyện lâu dài” (40a). Như thế còn hệ tại hơn là thiếu khiêm tốn. Đó là thói đạo đức giả. Các vị lãnh đạo này không ngần ngại bóc lột những kẻ bần cùng cô thế. Những lời cầu nguyện lê thê của họ nhằm mục đích che đậy tội lỗi của họ, để phình lừa dân chúng. Ta thấy lời kết án của Chúa Giêsu có vẻ quá cứng rắn. Nhiều khi Chúa Giêsu cùng quan điểm với nhóm biệt phái và các thủ lãnh của họ là các kinh sư. Ta cũng đã có lần chứng kiến một số người trong họ thành tâm kiếm tìm Nước Thiên Chúa (12,28-34).
Nhưng nên nhớ rằng mãi 40 năm, Maccô mới viết những đoạn Tin Mừng này. Trong khoảng thời gian trôi qua đó, hình ảnh giới hữu trách Do Thái đã thay đổi. Khi thuật lời đả kích nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với ký lục, Maccô muốn cho độc giả của mình, là các Kitô hữu Rôma thấu đáo về não trạng lẫn hành vi của các thủ lãnh Israel sau khi họ đã bắt bớ Chúa Giêsu. Cuộc khẩu chiến giữa Chúa Giêsu và các kinh sư đã nổ ra ngay từ đầu cũng như sự thù nghịch ngày càng tăng giữa Giáo Hội Kitô giáo non trẻ và hội đường (Do Thái giáo) xảy ra trong những năm 80-90. Ở Luca (11,42-54), và nhất là ở Matthêu (23,13-32), sự phê phán gay gắt giới biệt phái và kinh sư diễn ra theo một tiến trình dễ chấp nhận và phù hợp hơn với lối viết Tin Mừng.
ĐỒNG XU CỦA BÀ GÓA (12,41-44)
Đây là hồi cuối thuật lại cảnh Chúa Giêsu ở Đền thờ. Một hồi thật cảm động. Maccô vừa mới phác họa hình ảnh tàn nhẫn của nhóm kinh sư (“Họ bóc lột của cải các bà góa”) (12,40a) xong, liền đưa ngay ra hình ảnh một bà góa rộng rãi đặc biệt. Hai hình ảnh tương phản hoàn toàn. Những từ “bà góa” nối kết hai đoạn văn thật tài tình.
Cảnh tượng diễn ra trong nơi thánh của Đền thờ, gần bên kho tàng. Đó không phải là nơi chứa tài sản đền thờ, mà là nơi cất chứa lễ vật các tín đồ dâng cúng (2V 12,10). Ở cuối phòng người ta đặt các hòm tiền. Những kẻ giàu có, chiếm phần lớn, bỏ vào đấy “các số tiền lớn” (c. 41b). Nhưng Chúa Giêsu chỉ đưa mắt nhìn một sự kiến đáng lưu tâm mà thôi. “Một người đàn bà góa tiền đến và bỏ vào đó 2 đồng xu” (x. 42). Đó là một bà góa, nghĩa là một phụ nữ, một người đáng thương hại dưới con mắt củ nam giới vốn có ưu thế trong gia đình và xã hội thời ấy. Vì không còn sự bao bọc của chồng, người góa phụ chỉ còn nhờ vào tàn sản chính mình, không ai giúp đỡ. Theo Thánh kinh các bà góa được liệt vào số những người nghèo khổ nhất cùng với những kẻ mồ côi và những kẻ tha phương cầu thực (Đnl 24,17-22). Chính vì vậy Maccô mới nói: “Người góa phụ khốn khổ”. Số tiền bà bỏ vào thùng chẳng có đáng là bao: hai đồng xu (theo đơn vị tiền tệ Do Thái), một món tiền không nghĩa lý gì. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã nắm lấy cơ hội này hầu qua cử chỉ khiêm tốn đó, Ngài dạy cho các môn đệ một bài học quan trọng (43-44). Ngài nhấn mạnh đến sự trái ngược này kẻ giàu có cho đi “cái dư thừa” của họ, còn người góa phụ bần cùng lại cho chính cái mình đang cần đến nhất, cho luôn chính bản thân mình. Còn gương nào đẹp hơn? Các bạn hữu Chúa Giêsu hẳn phải nhận ra, nơi góa phụ tuy cơ bần mà độ lượng hình ảnh của một “môn đệ” chân thực. Ta nên lưu ý đặc biệt đến sự thể trong Tin Mừng là Chúa Giêsu thường làm nổi bật đức tính của giới phụ nữ (Lc 10,38-42): Martha và Maria; Ga 4,1-42: người đàn bà Samari) cho các “ông” môn đệ thấy. Sau khi dạy dỗ các môn đệ về sự kiện đời thường này, Chúa Giêsu rời đền thờ (13,1) và Ngài không còn trả lời đó lần nào nữa.