Chúa nhật XXX Thường niên – Năm B
XIN CHO CON ĐƯỢC THẤY
Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
***
Tiếp tục theo chân Đức Giêsu trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta câu chuyện Chúa chữa người mù, khi Ngài vừa ra khỏi thành Giêrikhô. Câu chuyện này, mới nghe qua có vẻ như chẳng liên hệ gì đến từng người chúng ta, bởi lẽ, về mặt tự nhiên, chẳng phải chúng ta vẫn đang nhìn thấy mọi sự đó sao?
Thế nhưng, kinh nghiệm thực tế cho chúng ta biết rằng, có rất nhiều điều xảy ra hàng ngày trước mắt chúng ta, chúng ta vẫn nhìn, nhưng lại chẳng thấy gì, ngay cả những việc riêng của chính bản thân chúng ta, chúng ta cũng chưa thấy rõ, chứ chưa nói đến việc nhìn thấy những điều thuộc về người khác. Cha ông chúng ta cũng đã từng nói lên cái kinh nghiệm này: “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng” hay là “chân mình thì lấm bê bê, lại cầm bó đuốc đi rê chân người”. Vì “quáng”, nên chúng ta chẳng thấy rõ “việc của mình”, và thực ra, đối với “việc của người”, chúng ta cũng “chẳng sáng”, như cha ông chúng ta thường nói: “Hoạ hổ hoạ bì nan hoạ cốt; tri nhân, tri diện bất tri tâm”.
Và nếu chẳng thể thấy rõ mình, cũng chẳng thể hiểu rõ người khác, như thế, một cách nào đó, tôi và quý ông bà anh chị em cũng đang bị mù. Do đó, chúng ta cũng cần cất tiếng kêu xin như anh mù trong bài Tin mừng hôm nay: “Lạy Thầy, xin cho tôi được thấy”. Chúng ta cần được Thiên Chúa làm cho thấy để khỏi đi lạc trên con đường tiến về Giêrusalem Thiên quốc.
- Một lời xin của người đang sống trong cảnh tối tăm:
Trở lại với bài Tin mừng, thánh sử Marcô cho biết lúc đó, Đức Giêsu vừa rời thành Giêrikhô và đang trên đường tiến về Giêrusalem, theo sau Ngài là các môn đệ và đám đông dân chúng. Giữa đám đông ồn ào đó, chợt có một tiếng kêu lớn: “Hỡi ông Giêsu, con vua Đavít, xin thương xót tôi”. Đó là tiếng kêu của một người mù có tên Bartimê, đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Anh ta đang kêu xin lòng thương xót của vị được gọi là “Con vua Đavít”. Anh ta muốn được nhìn thấy, anh muốn được giải thoát khỏi cảnh sống trong tối tăm để được nhìn thấy ánh sáng.
Lời kêu xin của người mù trong bài Tin mừng hôm nay như vang vọng lại lời kêu của dân Chúa khi họ đang sống trong cảnh “nước mất, nhà tan” mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Lạy Chúa, xin hãy cứu dân Chúa là những kẻ sống sót trong Israel”. Đây là tiếng kêu của một dân tộc đang rơi vào cảnh lầm than, tương lai của họ thật tối tăm, mờ mịt. Chính trong cảnh tối tăm đó, lời vị ngôn sứ như ngọn gió thổi bùng lên trong dân một ngọn lửa hy vọng về một tương lai tươi sáng hơn cho dân tộc mình: “Đây Ta sẽ dân dắt chúng từ đất Bắc trở về, sẽ tụ hợp chúng lại từ bờ cõi trái đất: trong bọn chúng sẽ có kẻ đui mù, què quặt, mang thai và sinh con, đi chung với nhau, hợp thành một cộng đoàn thật đông quy tụ về đây. Chúng vừa đi vừa khóc, Ta sẽ lấy lòng từ bi và dẫn dắt chúng trở về”.
Nhờ lời của vị ngôn sứ, dân Chúa tiếp tục hy vọng và đợi chờ ngày được giải thoát khỏi cảnh đời tăm tối của tội lỗi. Dân Chúa ngóng chờ ngày Đấng Messia của Thiên Chúa đến đem lại ánh sáng cho họ.
- Đức Giêsu, Đấng làm cho thấy:
Và quả thật, năm 538 trước Công Nguyên, lời Chúa hứa đã thành sự thực. Dân Chúa đã được hồi hương trở về và xây dựng lại Đền Thờ ngay trên mảnh đất mà Thiên Chúa đã hứa cho cha ông họ. Họ đã bước qua cảnh đời tối tăm để bước vào miền đất của ánh sáng. Sau hơn nửa thế kỷ lưu đày, nay lại được trở về quê cha đất tổ, một sự thật vượt quá sự tưởng tượng của họ. Tâm tư họ hân hoan vui mừng. Họ đang sống trong sự thật, nhưng cứ tưởng như mình đang ở trong mơ. Tâm tình đó đã được tác giả Thánh vịnh diễn tả thật sống động trong bài đáp ca: “Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về, chúng tôi dường như người đang mơ, bấy giờ miệng chúng tôi vui cười, lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan”.
Sự giải thoát dân Chúa khỏi ách nô lệ này đã báo trước một sự giải thoát triệt để hơn mà Đức Giêsu sẽ thực hiện sau này. Ngài chính là Đấng giải thoát từng người chúng ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi, bởi lẽ như lời Ngài nói: “Phàm ai phạm tội, thì là nô lệ” (Ga 8, 34). Sự giải thoát này sẽ được Ngài hoàn tất nhờ cuộc tử nạn – Phục sinh của Ngài. Như thế, việc Đức Giêsu chữa lành người mù hôm nay, ngay trên đường Ngài lên Giêrusalem để chịu khổ nạn chính là một dấu chỉ cụ thể cho sứ mạng của Ngài. Do đó, khi nghe tiếng Ngài gọi, dân chúng đã nói với người mù: “Hãy vững tâm đứng dậy, Người gọi anh”.
Mặt khác, nếu như lời kêu xin của anh mù là tượng trưng cho tiếng kêu của chúng ta là những người tội lỗi, những người đang sống trong bóng đêm của sự chết, thì quả thật, chúng ta đang cần một Đấng đến để giải thoát chúng ta. Chúng ta cần một vị Thượng Tế để dâng lên Thiên Chúa lễ vật đền tội và cầu nguyện cho chúng ta. Vị Thượng Tế ấy chẳng có thể là ai khác mà chính là Đức Giêsu Kitô, vị Thượng tế được chính Chúa Cha chọn gọi như lời tác giả thư Do thái trong bài đọc hai: “Cũng thế, Đức Kitô không tự dành lấy quyền làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người rằng: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con”. Cũng có nơi khác Ngài phán: “Con là tư tế đến muôn đời theo phẩm hàm Melkisêđê”. Hơn nữa, nhờ việc nhập thể, Đức Kitô đã thực sự có thể thông cảm được mọi nỗi yếu hèn trong thân phận làm người của chúng ta. Và nhờ Thiên tính của mình, Đức Kitô đã trở nên vị Trung gian duy nhất dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa, như lời Ngài khẳng định: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6a; x. 1 Tm 2, 5).
Như thế, qua phần lời Chúa hôm nay, Giáo Hội muốn mời gọi từng người chúng ta mặc lấy tâm tình của người mù, người đang sống trong bóng đêm của sự chết, để cất lời kêu xin lên Đức Kitô, Đấng có quyền năng đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
- Chúng ta hôm nay:
Người mù hôm nay đã được chữa lành. Anh đã được chữa lành nhờ vào lòng tin của anh, như lời tuyên bố của Đức Giêsu: “Đức tin của anh đã chữa anh”. Vâng, chính một đức tin mạnh mẽ giúp anh vượt qua mọi mặc cảm, giúp anh vượt qua sự cản trở của đám đông dân chúng đang đi theo Đức Giêsu. Anh đã dám dứt bỏ mọi ràng buộc, kể cả chiếc áo choàng là vật rất cần thiết cho đời sống thường ngày của anh tại miền đất Palestin. Ngoài ra, anh được chữa lành, còn bởi vì anh biết anh bị mù nên đã đến cầu xin cùng Đức Giêsu.
Do đó, để được bước vào miền đất của ánh sáng, trước hết mỗi người chúng ta cũng cần nhận ra rằng mình đang “bị mù”. Chúng ta bị mù bởi tâm trí chúng ta đang bị tội lỗi, ích kỷ, kiêu căng che khuất, khiến chúng ta không thể đón nhận sự thật, đón nhận chân lý. Và để thoát khỏi tình trạng mù loà tâm linh này, mỗi người chúng ta cần chạy đến với Chúa trong tâm tình khiêm tốn đơn sơ nơi toà Cáo giải. Chúng ta cần can đảm vượt qua những ươn lười, những cám dỗ của dục vọng đam mê nơi bản thân, để đến gặp Đức Giêsu thường xuyên trong bí tích Thánh Thể. Và nhờ sức mạnh của Ngài, tất cả chúng ta sẽ được giải thoát khỏi cảnh tối tăm của sự chết, để bước đi trong miền đất của ánh sáng và sự sống muôn đời. Amen.