CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH B – Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
ĐỨC GIÊSU VỊ MỤC TỬ TỐT LÀNH
Chú giải của Fiches Dominicales
***
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Giữa cuộc luận chứng về căn tính.
Chúng ta đang trong bối cảnh lễ Lều, với 2 nghi lễ độc đáo: thắp sáng Đền Thờ và rước đuốc ban đêm; đoàn rước các tư tế tới múc nước ở giếng Siloê về đổ trên bàn thờ trong Đền Thờ.
Chính trong khung cảnh lễ này mà Đức Giêsu đã chọc giận các đối thủ đang tìm bắt Người, khi tự giới thiệu là người được Thiên Chúa sai đến thực hiện nơi bản thân điều mà nghi lễ loan báo: Khi lễ Lều kết thúc, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ai khát hãy đến cùng Ta và hãy uống” (7,37-38). Kế đó, Người nói với người Do Thái: “Ta là ánh sáng trần gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ được ánh sáng cho cuộc đời” (8,12).
Ra khỏi Đền Thờ, Đức Giêsu gặp trên đường một người mù từ mới sinh. Người truyền cho anh: “Hãy đi rửa ở suối Siloê”?
Người mù đi rửa và anh đã nhìn thấy. Bị những người Biệt phái làm khó dễ, nguyền rủa, sau cùng, bị trục xuất khỏi Hội đường, người mù đã sáng lại gặp Đức Giêsu, anh nhận ra Người là Con Người: “Lạy Thầy, tôi tin”. Anh quỳ xuống trước mặt Người mà tuyên xưng. Anh giống như con chiên đầu tiên của đoàn chiên mới được vị Mục Tử Tốt Lành qui tụ lại (9,35-38).
2. Đức Giêsu tự giới thiệu mình là vị Mục Tử cứu thế
Đức Giêsu vẫn đang nói với người Biệt phái. Người đã đối chiếu “trộm cướp”, chúng theo ngã khác leo vào chuồng chiên, với “vị mục tử đích thực”: theo cửa chính mà vào, gọi tên từng con và cho chúng ra ngoài (10,1-6). Đối với các thính giả tìm lương thực nơi Kinh Thánh, hình ảnh về người mục tử cứu thế được Thiên Chúa sai đến, dẫn đầu đoàn chiên trong cuộc Xuất hành mới thật là dễ hiểu.
Trước sự chậm hiểu của những người Biệt phái, Đức Giêsu tự nhận là “cửa chuồng chiên” (10,7-10) trước khi tuyên bố công khai: “Ta là mục tử tốt lành (người chăn chiên đích thực)!” không phải theo nghĩa nhẹ nhàng, bóng bẩy, mà theo nghĩa trọn vẹn của chức năng, thể hiện trọn vẹn sứ mệnh mục vụ.
– Người “chăn thuê”, chẳng khi nào chịu liều mình cho đoàn chiên vì chiên đâu phải của họ: vừa có biến là họ đào tẩu bỏ mặc đàn chiên không ai bảo vệ. Đức Giêsu, “vị mục tử tốt lành”, cũng giống như chàng mục tử Đavid nhỏ nhắn ngày xưa dám cống hiến cả mạng sống để bảo vệ đàn chiên của cha già Jessê (1Sam 17,31 ), không sợ “nguy nan” hay “thiệt mạng”.
Khác với người “chăn thuê”, Đức Giêsu, vị “mục tử tốt lành”, “biết chiên và chiên biết Người, như Cha biết Người và Người biết Cha”. Người gắn bó với họ bằng sợi dây yêu thương theo khuôn mẫu và khơi nguồn từ tình yêu trao đổi giữa Chúa Cha và Chúa Con.
3. Đến qui tụ đoàn chiên vượt qua mọi biên giới.
– Bỗng chốc chân trời mở rộng vượt khỏi những giới hạn chật hẹp của “chuồng chiên Do Thái, vươn tới những con chiên khác” mà Đức Giêsu phải dẫn đưa về, để chỉ còn “một đàn chiên và một chủ chiên”.
A.Marchadour chú giải: lời Đức Giêsu phá vỡ hoàn cảnh lịch sử, bao gồm cả những tín hữu đến từ thế giới dân ngoại, nhờ các tông đồ mà tự nhận Người (17,20). Thời sau hết, mọi tín hữu sẽ qui tụ chung quanh Đức Giêsu và lời Người. Sự hiệp nhất đáng mong ước này được trao ban trong cuộc Tử Nạn của Đức Giêsu (11,52); sự hiệp nhất ấy có nguồn gốc nơi sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đó là một cuộc chinh phục đầy gian nan mà Đức Giêsu đã quan tâm cầu khẩn trước khi Người về cùng Cha (17,21) (Tin Mừng theo thánh Gioan, Centurion, trang 144).
– Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng một câu nói lên sự viên mãn đến lạ lùng, qua đó, dưới ánh sáng của mối thân tình giữa Người và Chúa Cha, Đức Giêsu bộc lộ ý nghĩa của đời sống và cái chết của Người. Khi trao ban mạng sống của Người, đúng hơn “phó thác mạng sống” trong một hành vi vừa tự do tuyệt đối (“Mạng sống Ta… không ai lấy được: chính Ta tự trao ban”) vừa hoàn toàn vâng phục Chúa Cha (“Đây là lệnh truyền Ta đã nhận từ Cha”), Đức Giêsu, Chúa Con, bày tỏ ở mức hoàn hảo nhất tình yêu của Chúa Cha muốn cứu độ toàn thể nhân loại.
Marchadour nhận xét: “Được đặt ở khởi đầu và kết thúc, Chúa Cha xuất hiện như nguồn mạch và cùng đích cho mọi hoạt động của Đức Giêsu. tất cả đến từ Người: lệnh truyền chẳng gì khác hơn là sự bày tỏ tình yêu. Cái chết, dưới ngòi bút sống động của Gioan, được trình bày như một hành vi tuyệt đối tự do trong đó Đức Giêsu hoàn tất lệnh truyền yêu thương của Chúa Cha. Ngay cả trong cái chết, giờ phút mà con người thường bị truất quyền làm chủ mạng sống, Đức Giêsu vẫn làm chủ, vì Người hoàn tất điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu, muốn để đem sự sống đến cho con người” (Sđd, trang 144-145)