CHÚA NHẬT LỄ LÁ
ĐỨC GIÊSU VÀO GIÊRUSALEM
KIỆU LÁ: Máccô 11,1-10
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
***
1.- Ngữ cảnh
TM Máccô giới thiệu cho chúng ta thấy Đức Giêsu luôn đi đường. Người không có một nơi cố định cho hoạt động của Người, nhưng đi xuyên qua toàn xứ sở. Người đến sông Giođan gặp Gioan Tẩy Giả (1,9), rồi đi vào hoang địa (1,12), trở lại Galilê và đi dọc theo bờ hồ Ghennêxarét (1,16). Hành trình của Người đưa Người sang miền đất Dân ngoại (5,1), đến Tia và Xiđon, trong Miền Thập Tỉnh (7,24.31), cho đến tận nguồn sông Giođan, đến Xêdarê Philípphê (8,27). Cuộc đời của Đức Giêsu là một chuyến lữ hành không ngơi nghỉ. Ngoại trừ những lần đi thuyền, Người luôn đi bộ. Người cũng vẫn đi như thế trong chuyến đi từ Galilê về Giuđê (9,30; 10,32), ngang qua Giêrikhô (10,46) để đến tận các cửa thành Giêrusalem, đến làng Bếtphaghê và Bêtania. Người dừng chân bên triền núi Ôliu, và đứng nhìn Đến Thờ và Thành thánh (11,1).
Tại đây, bất ngờ Người thay đổi thói quen trước đây: Người không muốn đi bộ nốt đoạn đường còn lại; Người bảo các môn đệ đưa về một con lừa con. Người không muốn đi bộ vào Giêrusalem, Người muốn vào Thành thánh trên lưng lừa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:
1) Địa điểm (11,1a);
2) Chuẩn bị con vật để cỡi (11,1b-7):
a- giao nhiệm vụ (cc. 1b-3),
b- thực hiện nhiệm vụ (cc. 4-7);
3) Vào Thành thánh (11,8-10):
a- các cử chỉ chào đón (c. 8),
b- lời reo hò chào đón (cc. 9-10).
3.- Vài điểm chú giải
– Giêrusalem… Bếtphaghê… Bêtania (1): Vào thời Thượng Cổ, thành này được gọi bằng hai kiểu, Hierosolyma và Hierousalêm. Mc luôn luôn dùng tên thứ nhất. Trong khi tên thứ hai có tính trang trọng và linh thánh, tên thứ nhất (dạng hy-hóa) được những người không phải là Do Thái coi như một tên phàm tục để gọi thành này. Tên thứ nhất được chọn không phải là tình cờ, bởi vì chỉ ở 3,8, tên này mới được nêu ra với giọng trung lập, còn thì luôn được coi là căn cứ của các đối thủ của Đức Giêsu (3,22; 7,1), là nơi mà họ sẽ giết Người (10,32; 15,41).
Về Bếtphaghê (nguyên nghĩa là “nhà của trái vả”), chúng ta không biết được gì chắc chắn. Đây là một làng hay là một cơ sở? Dường như đây là một vùng đất ở bên ngoài Giêrusalem, bắt đầu với ranh giới Đến Thờ, nghĩa là đàng trước các tường phía đông của thành.
Còn Bêtania (nguyên nghĩa không rõ: “nhà của người nghèo”? hay là “nhà của ông Khanania”?) cách thành thánh khoảng hơn 2,5 cs, ở về phía đông núi Ôliu.
– con lừa con (2): Chi tiết này gợi tới Dcr 9,9-10, theo đó đức vua thiên sai hòa bình sẽ ngồi trên lưng một con lừa con vẫn còn theo mẹ mà đến, ngài sẽ quét sạch các chiến xa, chiến mã và cung nỏ, và sẽ mang lại hòa bình cho muôn dân. Con lừa con “bị cột” là một gợi nhớ đến St 49,11, lời chúc phúc của Giacóp trên Giuđa, từ ông này sẽ phát xuất người làm chủ gậy chỉ huy.
– cứ nói là Chúa cần đến nó (3): Từ ngữ “Chúa” (kyrios) này không có nghĩa là “ông chủ (của con lừa)”, nhưng là chính Đức Giêsu dùng để tự xác định về mình. Người dùng kiểu gọi này để cho thấy quyền Người có trên các sự vật. Nhưng từ này cũng làm nổi lên nghịch lý: vị Chúa này thật nghèo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Địa điểm (1a)
Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu chuyến đi. Trong ba địa danh mở đầu cho bài tường thuật cuộc vào thành, Giêrusalem được nêu ra đầu tiên, kế đó là Bếtphaghê và Bêtania.
* Chuẩn bị con vật để cỡi (1b-7)
Tại một điểm ở ngoài ba địa danh vừa nêu, Đức Giêsu cử hai môn đệ đi tìm một con lừa con. Ta chỉ hiểu được nhiệm vụ huyền bí được giao cho các môn đệ khi dựa trên Dcr9,9-10 và St 49,11. Quả thật, các bản văn Cựu Ước không được trích ra (như ở Mt 21,5), nhưng các bản văn ấy rõ ràng nằm ở tại nền của bài tường thuật. Với nhiệm đã vụ ký thác cho các môn đệ, Đức Giêsu bắt đầu hoàn tất những gì đã được nói về Đấng Mêsia trong Kinh Thánh, và bằng cách đó, Người loan báo rằng ngay khi vào Thành thánh, Người cương quyết bước theo thánh ý Thiên Chúa hoàn toàn. Tác giả không thấy cần phải xác định nơi con lừa bị cột, nhưng cần phải cho thấy rằng những người được cử đi đã thi hành chính xác nhiệm vụ được giao.
Hai môn đệ đã tìm thấy con vật đúng như được báo trước. Họ đã dẫn nó về cho Đức Giêsu, lấy áo choàng trải lên lưng con vật để làm cái yên và trang sức cho nó, rồi Đức Giêsu cỡi lên. Quang cảnh này nhắc nhớ lại một cuộc đăng quang của nhà vua tại Israel (x. 1 V 1,38-40; 2 V 9,13).
Chúng ta ghi nhận là tác giả đã dành 7 câu trong 10 câu của đoạn này mà nói về cách thức đi tìm con lừa. Lý do: việc cỡi lừa đi vào thành có một giá trị chứng minh. Người muốn cho hiểu rằng Người đến Giêrusalem, trung tâm của dân tộc Israel, với danh nghĩa nào.
* Vào Thành thánh (8-10)
Đoàn người đã cùng đi với Người từ Galilê đến, bây giờ reo hò vang dậy để chào đón Người. Người ta trải áo trên đường và rải các cành cây mà rải lên đường để Người bước qua. Người ta reo hò Hôsanna (hoan hô!) và chào đón Người bằng các lời của Tv 117,26a (LXX). Đức Giêsu không vào Thành như một khách hành hương, cũng chẳng phải như mộtvị tôn sư hay một vị thầy chuyên làm phép lạ, mà là như Đức Vua đã được hứa cho thời cuối cùng. Tuy nhiên, Người không đến như một nhà chinh phục, hay như một vị vua hiếu chiến với binh lính và vũ khí, mà đến không vũ khí, trong tình trạng khiêm tốn và hoà bình. Khi vào Thành thánh, Đức Giêsu thực hiện được các lời hứa thiên sai, nhưng không để thỏa mãn những niềm hy vọng chính trị. Tác giả không nói đến danh hiệu “vua” là vì ngài muốn để dành cho truyện Thương Khó, khi đó phẩm cách vương giả của Đức Giêsu sẽ được tỏ lộ. Cuộc tiến vào Thành lại không có phản ứng từ phía dân chúng và kết thúc mà không hề bị ghi nhận (khác với Mt 21,10t). Đây là cách Mc chuẩn bị cho cuộc tranh luận thật sự trong vụ xử án liên hệ đến phẩm cách vương giả của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
- Đức Giêsu không có gì phải dính dáng đến sự huy hoàng và quyền lực bên ngoài, với sức mạnh và bạo lực. Người không mang gì ngoài chính bản thân, uy tín và lời nói của Người. Người không muốn tạo ra bất cứ ảnh hưởng nào với những phương tiện quyền lực, nhưng chỉ với bản thân Người mà thôi. Người không muốn ép buộc và đè bẹp bất cứ ai, nhưng muốn chính phục mọi người về theo Người, theo tương quan của Người với Thiên Chúa, theo hành trình của Người, như Người đã cho thấy qua cách xử sự trước đó và như Người sẽ cho thấy sau này tại Giêrusalem.
- Đức Giêsu chưa bao giờ loan báo Người sắp tái lập triều đại vua Đavít, nhưng đã công bố rằng Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Người không hề nhắm tới vẻ hào nhoáng và quyền lực, nhưng chỉ nhắm tới Thiên Chúa và lòng từ bi thương xót của Ngài; Người đã kêu gọi hoán cải về với Thiên Chúa và tin vào Người (Mc1,15). Tại Giêrusalem, Người sẽ bảo vệ Đến Thờ như là nhà cầu nguyện (11,17), Người mời gọi người ta trả lại cho Thiên Chúa điều thuộc về Thiên Chúa (12,17), mời gọi người ta tin vào quyền lực của Thiên Chúa có thể chiến thắng cái chết (12,27), mời gọi yêu mến Ngài hết lòng, hết trí khôn và hết sức lực (12,30). Cách hành động của Đức Giêsu không hướng về mộttriều đại trần thế và một quyền lực của thế gian này. Người loan báo tình thương và lòng từ bi của Thiên Chúa và muốn dẫn đưa người ta đến chỗ tin vô điều kiện vào Thiên Chúa. Người nào chờ đợi nơi Người một điều gì khác, thì phải giải thích Người theo kiểu khác và cuối cùng sẽ thất vọng mà lìa bỏ Người.
- Đức Giêsu vào Giêrusalem như vị Vua đã được Thiên Chúa hứa. Nhưng Triều Đại của Người chẳng có gì giống với các vương quyền trần thế. Con lừa con mà Người cỡi, Người đã mượn, và các môn đệ đã hứa là sẽ trả lại ngay khi vừa xong việc (11,3). Trên con lừa này, Người cũng chẳng có lấy mộtcái yên, và các môn đệ Người phải tạo ra mộtcái yên bằng cách lót áo choàng của họ lên cho Người ngồi (11,7). Tuy cỡi lừa, Người đến cách đơn giản và không phương tiện, cũng y như Người đã yêu cầu Nhóm Mười Hai khi cử họ đi truyền giáo (6,8t). Chỉ người nào biết nhận ra Người và trân trọng Người thì mới có thể tiếp đón Người ngự đến và hiện diện trong niềm hân hoan vui sướng.
******************************************
CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA ĐỨC GIÊSU
Máccô 14,01-15,47
***
Bài Thương Khó tự nó đã là một khối chất liệu phong phú giúp cá nhân cũng như cộng đoàn suy niệm. Để có điểm tựa cho việc suy ngẫm này, chúng ta có thể tìm hiểu cấu trúc bản văn.
Đôi khi người ta cho rằng Mc là tác giả viết không hay mấy. Thật ra không phải thế. Ở đây chỉ nguyên việc nghiên cứu cấu trúc của bài Thương Khó, chúng ta đã nhận ra một nền thần học sâu sắc nằm chìm trong đó. Bản văn có thể chia thành hai phân đoạn:
Mc 14,1-21. Phân đoạn này có cấu trúc đồng tâm như sau:
A cc. 1-2: Giới lãnh đạo âm mưu giết Đức Giêsu
B cc. 3-9: Xức dầu tại Bêtania
C cc. 10-11: Giuđa phản bội
B’ cc. 12-16: Chuẩn bị ăn Lễ Vượt Qua
A’ cc. 17-21: Đức Giêsu báo trước Giuda sẽ phản bội
Cấu trúc này nhắm vào hành vi phản bội của Giuđa (C), đã được chuẩn bị bởi cuộc âm mưu của giới chức tôn giáo (A) và được Đức Giêsu loan báo (A’). Ở bên trong cái khung này, có việc xức dầu ở Bêtania, được coi như lời báo trước cái chết của Đức Giêsu (B), còn các việc chuẩn bị cho bữa tiệc Vượt Qua là như những lời tiên báo về cuộc phục sinh của Đức Kitô (B’). Nằm ngay trọng tâm việc Đức Giêsu cứu độ chúng ta nhờ cái chết và sự sống lại của Người, là hành vi phản bội của Giuđa.
Mc 14,22-16,8. Phân đoạn thứ hai này cũng có cấu trúc đồng tâm như sau:
A 14,22-25: Lập Bí tích Thánh Thể
B 14,26-31: Phêrô sẽ chối Thầy
C 14,32-52: Tất cả các môn đệ chạy trốn
D 14,53-65: Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa, còn thầy thượng tế thì xé áo
E 14,66-72: Đáp lại Đức Giêsu tuyên xưng niềm tin, Phêrô chối ba lần
F 15,1-15: Kết án vua dân Do Thái
G 15,16-20a: Tôn vương vua dân Do Thái
F’ 15,20b-27: Thi hành án tử cho vua dân Do Thái
E’ 15,19-32: Ba lần Đức Giêsu bị chế nhạo
D’15,33-39: Đáp lại sự chế nhạo, một người ngoại tuyên bố Người là Con Thiên Chúa. Màn Đền Thờ xé ra
C’15,40-41: Các phụ nữ đứng đó (họ đã đi theo và phục vụ Đức Giêsu: đây là tư cách của người môn đệ)
B’ 15,42-47: Cái chết của Đức Giêsu làm phát sinh các môn đệ mới
A’ 16,1-8: Đức Giêsu phục sinh là Đấng đang sống.
Bản văn đúng là một khảo luận thần học về Đức Kitô, về các môn đệ, Bí Tích Thánh Thể, tương quan giữa Đức Giêsu và các cơ cấu phượng tự Israel, sự mở rộng ơn cứu độ cho Dân ngoại. Chúng ta có thể nêu vài nhận xét:
A-A’ cho thấy Bí Tích Thánh Thể như là nơi Đức Giêsu đang sống hôm nay trong Hội Thánh. C-C’ cho thấy người môn đệ đích thực không những là người đã bước theo Đức Kitô, nhưng còn là người đã “phục vụ” (giúp đỡ) Người. Đấng Chịu đóng đinh, Đấng vừa được tôn vương, theo kiểu khôi hài nhưng có thật (G) không là ai khác mà là chính Con Thiên Chúa (D-D’), nghĩa là Đấng làm trọn niềm chờ mong của Cựu Ước, là Đấng Mêsia, vua dân Do Thái (F-G-F’) (như thế đã kết thúc dự phóng của Mc là nhắm cho thấy rằng quả thật Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”, Mc 1,1). Các phân đoạn D và D’ còn cho thấy rằng nếu người ngoại giáo có thể tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa là bởi vì với cuộc Thương Khó của Người, Người đã chấm dứt chế độ tư tế Lêvi (theo Luật, cấm thầy thượng tế xé áo, x. Lv 21,10) và việc phục dịch Đền Thờ là việc bị cấm đối với người ngoại (điều này được cho thấy qua việc màn trường Đền Thờ xé ra).
Tất cả mọi điều này đã có thể xảy ra bởi vì Đức Kitô đã bị đóng đinh và, như phân đoạn thứ nhất 14,1-21 nhắc nhớ, cũng là vì Giuđa đã phản bội…
+ Kết luận
Trọng tâm của cuộc Thương Khó là Đức Giêsu. Người đã khởi đầu cuộc sống công khai bằng việc loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa và kêu gọi các môn đệ hợp tác với Người. Thế là “con đường” đã thành hình do các lời nói và cách sống của Người. Tuy nhiên, Đức Giêsu liên tục gặp phải sự ngu dốt và trì trệ của các môn đệ. Người cũng đã bị dân Nadarét loại trừ và đám đông không hiểu. Ngược lại có những tín hiệu cho thấy dân ngoại sẵn sàng đón tiếp Người hơn: truyện người phụ nữ xứ Xyri và việc bánh hóa nhiều còn dư bảy giỏ (để dành cho người vắng mặt!). Đức Giêsu đã kết thúc sứ vụ Galilê trong tình trạng tranh tối tranh sáng của các môn đệ.
Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu là cơ hội để vạch rõ gương mặt thật của tất cả mọi con người đã từng có cơ hội tiếp xúc với Đức Giêsu, và cũng là khoảng thời gian chứng minh cao độ nhất tư cách của Đức Giêsu là Đấng Cứu thế và ơn cứu độ viên mãn Thiên Chúa muốn ban cho loài người qua Con của Ngài. Cần chiêm ngắm những chọn lựa của Đức Giêsu. Người có thể tránh khỏi cái chết, nhưng Người lại sẵn sàng nạp mình. Người có thể lợi dụng đám đông để gây ra một cuộc đảo lộn để gây thanh thế, nhưng Người lại im lặng, chịu cảnh cô đơn. Người có thể vận dụng quyền lực của “Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng” để tự giải thoát, nhưng Người đã chịu hành hạ, sỉ nhục, đánh đòn và bị đóng đinh.
Đức Giêsu giống như một con người quá yếu, yếu một cách thảm hại. Người như một kẻ bị thua, thua một cách nhục nhã. Tuy nhiên, Người lại rất mạnh trong chính tình trạng yếu thua đó, khi Người thắng vượt mọi thử thách đau đớn để trung thành với Chúa Cha. Dù như bị Thiên Chúa bỏ rơi, Người vẫn yêu mến, vẫn tin tưởng phó thác. Dù bị chế nhạo, nguyền rủa, Người vẫn một lòng yêu thương tha thứ. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã cứu thoát loài người và đem đến cho con người sự sống vĩnh cửu.
2.- Gợi ý suy niệm
Hai cám dỗ
Khi đọc bài Thương Khó, chúng ta dễ có một trong hai thái độ, thật ra là những cám dỗ nặng nề: hoặc cảm động khi thấy Đức Giêsu đáng thương bị sỉ nhục, bị đánh đòn và bị đóng đinh; hoặc nổi giận với các thượng tế đã kết án Người phải chết và với toán lính đã giết chết Người khi hành hạ và đóng đinh Người. Các tâm tình này đúng là các cám dỗ bởi vì chúng thỏa mãn một thứ linh đạo cảm xúc, nhờ đó chúng ta cảm thấy mình có lương tâm đúng đắn, không có chút gì đáng trách cả, nhưng trong thực tế, chúng ta chẳng hề thấy mình bị liên lụy gì trong bản thân và trong cuộc sống chúng ta với cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Chúng ta cảm thấy mình có “đôi bàn tay sạch”!
Kinh nghiệm về đời môn đệ
Muốn biết mình có phải là môn đệ chân chính của Đức Giêsu chăng, ta phải quy chiếu vào Đức Giêsu. Tác giả Mc đã làm như thế cho trường hợp Phêsrô. Khoảnh khắc đặc biệt phù hợp là hoạt cảnh cuộc xử án trước Thượng Hội Đồng. Tác giả Mc đã tinh tế so sánh cuộc thẩm vấn Đức Giêsu do các thượng tế thực hiện (14,53.55-65) với cuộc “hỏi dò” Phêrô do người nữ tỳ và các người giúp việc thực hiện (14,54.66-72). Tác giả đã đặt hai con người trong thế tương phản: khi Đức Giêsu trả lời thật cho các lời chứng dối trước một quyền bính hợp pháp, Phêrô lại trả lời dối cho các dò hỏi có cơ sở của những người cấp dưới không có chút quyền bính. Chính những lúc khó khăn mà vẫn sống giống như Đức Giêsu, người môn đệ mới đúng là môn đệ chân chính.
Con người đau khổ
Quả thật, chúng ta cần chia sẻ với nhau xác tín này: Chỉ có nơi Chúa, ta mói có thể tìm ra sức mạnh mà sống cái hiện tại khó khăn và hy vọng vào một tương lai ở bên kia trái đất mà Thiên Chúa đã bảo đảm cho ta. Suy ngẫm cuộc Thương Khó của Đức Kitô, bằng cách nhận ra rằng cuộc Thương Khó này đang xảy ra nơi một con người đang đau khổ ở kề bên ta, giúp ta tránh được việc sống cuộc Thương Khó như một cuộn phim hết sức cảm động hoặc như một quyển tiểu thuyết khiến rơi nước mắt, nhưng thúc bách ta suy nghĩ về đau khổ của Người. Một đau khổ có thể chạm tới được, khi mà Người bị nỗi lo sợ khắc khoải đè bẹp, Người xin Chúa Cha nếu có thể được thì cất xa thử thách này, hoặc hơn nữa, khi hoàn toàn là một con người, trên thập giá, Người kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”. Chính con người trên thập giá, con người của đau thương ấy, thật sự đang là hiện thân của đời sống chúng ta, một cuộc sống thường bị mờ tối đi vì những thử thách và khắc khoải. Tuy nhiên, đây là một đau khổ có thể đưa lại mộtý nghĩa tuyệt đối mới mẻ theo viễn tượng của Đức Kitô, Đấng vừa là người vừa là Thiên Chúa, Đấng đã sống lại sau khi chết. Như phụng vụ phép Rửa nhắc nhớ, qua Con của Ngài, Thiên Chúa đã ban cho loài người chúng ta “niềm hy vọng vui tươi là được sống đời đời”.
Hôm nay, chúng ta cần phải thấy rõ: chúng ta có được sự sống chân thật ở nơi nào? Nơi các sức mạnh của trần gian hay là nơi Thiên Chúa? Cần phải thấy rõ, và chọn lựa dứt khoát. Lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn còn vang vọng: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.