Chúa nhật II mùa Thường niên B
CHÚNG TÔI ĐÃ GẶP
Chú giải của Noel Quesson
***
Mùa Phụng vụ được cấu trúc dựa theo hai lễ lớn: Giáng Sinh và Phục Sinh. Mỗi “thời điểm đặc biệt” trên lại được một thời gian chuẩn bị trước, gọi là Mùa Vọng và Mùa Chay, và được kéo dài theo sau bằng Lễ Hiển Linh và Mùa Phục Sinh.
Ngoài hai giai đoạn lễ quan trọng này, thời gian phụng vụ trong năm trở nên “thông thường” hơn, đó là các Chúa Nhật xem ra ít sắc thái hơn. Tuy nhiên, đó không phải là những Chúa Nhật tẻ nhạt, kém phong phú đâu. Đời sống của ta không chỉ bao gồm những thời gian đặc biệt. Cần phải biết chấp nhận cả những chuỗi ngày bình thường nữa.
Sau những ngày lễ hội Giáng Sinh và Năm mới, hôm nay chúng ta lại bước vào một chuỗi dài các Chúa Nhật, qua đó Giáo hội trình bày cho ta cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu.
Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông”.
Đây là biểu tượng cho “nếp sống thường ngày”, bắt đầu lại mỗi buổi sáng, bề ngoài có vẻ tầm thường, lu mờ, ảm đạm… cứ khởi sự lại hoài hoài, nhưng thực sự có phải chỉ dẫn ta đến buồn chán hay không?
Đâu phải vậy, chính trong bối cảnh tẻ nhạt đó, thông thường xem như “không có cái gì xảy ra”, thì lại sắp phát sinh cái mới mẻ! Không có buổi sáng nào tầm thường cả.
Thiên Chúa đều hiện diện ở đó. Hôm nay, một điều gì đó sẽ xảy đến.
Thánh Gioan đã có ý soạn thảo chương thứ nhất Tin Mừng của ông, như một “Tuần lễ đầu tiên”: chủ yếu là gây chú ý “buổi khởi đầu của Đức Giêsu. (Ga 1,19) đó là ngày thứ nhất. Một phái đoàn Do Thái đến chất vấn Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan.
Ga 1,29: Ngày thứ hai “Hôm sau, Gioan Tẩy Giả xác định Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Ga 1,35: Ngày thứ tư, “Hôm sau, Đức Giêsu kêu gọi thêm hai môn đệ khác.
Ga 2,1: Ngày thứ bảy, “Ba ngày sau”, phép lạ đầu tiên đã xảy ra tại tiệc cưới Ca-na, qua đó Đức Giêsu biểu lộ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người.
Qua các dàn dựng như trên, Thánh sử Gioan muốn báo cho chúng ta một “Tin Mừng”: đây là một cuộc sáng thế mới, một cuộc tạo dựng mới được khởi sự, một việc lặp lại trang đầu tiên của Kinh Thánh. Toàn thể “mạc khải” như kêu lên cho chúng ta biết: Không, thời gian không thể tầm thường, tẻ nhạt, buồn chán. Chính thời gian sẽ phát sinh ra điều mới lạ căn bản, thới gian luôn mang chứa năng lực sáng tạo, thời gian sẽ thực hiện công cuộc Tạo dựng.
Đối với tôi mỗi buổi sáng có mang lại một điều gì mới mẻ không?
Lạy Chúa, xin giúp con biết chăm chú đến những gì sắp gây ra đến “biến cố” sắp xảy đến thường gây bất ngờ cho con, Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa đang chờ đợi con.
Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là chiên Thiên Chúa”.
Vâng, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu, và đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: ông sắp chuyển giao các môn đệ của mình. Họ sẽ rời bỏ Gioan Tẩy Giả để theo một ông Thầy khác. Tước hiệu đầu tiên trên đây, được dành cho con người mà cho tới nay, vẫn được coi là chàng thợ mộc Na-da-rét, có ý nghĩa gì? Chàng là “Chiên Thiên Chúa” sao!
Đó là tên gọi mà ta thường hát đi hát lại trong mỗi thánh lễ Dưới tên gọi để chúng ta mặc cho nó một ý nghĩa nào? Gioan Tẩy Giả nhằm nói lên điều gì? Ta chỉ cần gợi lại toàn diện bối cảnh Do Thái lúc đó. Tước hiệu này thực sự là bước “chuyển tiếp” từ Cựu ước sang Tân ước; đó là vị ngôn sứ cuối cùng và là chứng nhân đầu tiên Đức Giêsu Kitô. Vào ngày lễ Vượt qua, mỗi gia đình Do Thái giết một con chiên và lấy máu bôi lên cửa nhà mình trong lúc dùng bữa cơm tối: đó là biểu tượng cho công cuộc “giải phóng” ít-ra-en. Ngoài ra, từ “con chiên” trong tiếng A-ra-mên, ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng, cũng có nghĩa là “tôi tớ”. Mọi người Do Thái sùng đạo đều mang trong đầu lời sấm nổi tiếng của ngôn sứ Isaia (53,7), giới thiệu “người Tôi tớ của Thiên. Chúa” hoàn hảo như “một con” chiên bị người ta dẫn tôi lò sát sinh mà không mở miệng kêu than”. Vậy Đức Giêsu đã được chỉ định như Đấng sắp bị người ta sát tế trong thinh lặng, sắp vì yêu mà hiến mạng sống mình để xóa bỏ tội lỗi trần gian. Theo tập truyền Do Thái thời Đức Giêsu, người ta thường nói tới một “con chiên Chúa”, có thể mọc sừng cừu đực và lãnh trách nhiệm “bảo vệ cả đoàn chiên”. Ngoài ra, đó cũng là hình ảnh mà Gioan sử dụng lại trong sách Khải Huyền, khi ông giới thiệu Con chiên, được chọn từ đoàn chiên, đảm trách việc bảo vệ các anh em mình, tấn công và đánh tan kẻ thù. Chúng ta có đi quá xa bài thánh ca dịu dàng “Đây Con chiên vô cùng hiền lành” không! Thực ra, Chiên Thiên Chúa nơi chúng ta ca ngợi trước khi trước lễ không phải là hình ảnh con vật dịu hiền, trìu mến và vô hại … Đúng ra đó là hình ảnh một kẻ giao chiến hiếu thắng nhưng phải đổ đầm đìa máu huyết để cứu thoát chúng ta khỏi bất hạnh!
Đó là cách thức Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu như thể ngay ngày thứ ba khởi sự đời sống công khai của Người.
“Hai môn đệ nghe ông nói đều đi theo Đức Giêsu”.
Tôi có thể hình dung ra cảnh tượng trên. Đức Giêsu đang bước đi trên một con đường mòn dọc theo bờ sông. Hai người theo gót chân Người, thái độ nhút nhát, vẻ hồi hộp… Họ chưa gặp Người bao giờ. Đó là một người lạ mặt. Những gì sắp xảy ra đây?
Thật là quá “liều” khi theo một người lạ như thế . Có lẽ, đây là một cuộc mạo hiểm. Nhưng những cuộc hành trình vĩ đại đều bắt đầu như thế cả, vì nhờ đó mới mở ra một con đường mới.
“Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi…”
Đức Giêsu đã nghe thấy bước chân họ đạp trên sỏi đá, phía sau Người. Người quay lại. Tôi thử quan sát cảnh tượng này. Đây cũng là “cái nhìn đầu tiên” của Đức Giêsu đối với những người lạ mặt…
“Các anh tìm gì thế?”
Đây là lời đầu tiên của Đức Giêsu được ghi nhận trong Tin Mừng thánh Gioan. Câu hỏi này Đức Giêsu muốn đặt ra cho mọi người. Hôm nay, Người cũng đang hỏi tôi như thế. “Bạn tìm gì đó? Bạn đặt cho đời mình ý nghĩa nào? ước muốn của bạn là gì?
Ta cần ghi nhận, sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu không phải là một “khẳng định”, nhưng là một “câu hỏi’. Vì thực ra, để đến với Đức Giêsu, cần phải có thái độ “cởi mở”, không thể “khép kín” trong một hệ thống đóng khung, như các “tư tế và trợ tế” đã đến gặp Gioan Tẩy Giả. (Ga. 1,19). Đối với những loại người này, cuộc đối thoại đã sớm kết thúc vì thực ra họ ‘không tìm cái gì cả’. Lời đầu tiên của Đức Giêsu muốn lưu ý ta rằng, điều kiện trước hết để làm phát sinh và đào sâu đức tin, phải là thái độ “tìm kiếm, Đức tin trước hết phải là thái độ tìm hiểu đạo: đó là một cuộc kiếm tìm, một câu hỏi. “Lạy Chúa, Chúa là ai?”, kẻ nào cho mình biết tất cả, sẽ bị khựng lại trong những xác tín của mình, sẽ không bao giờ tiến bộ được. “Không có Thiên Chúa! – Bạn có tin chắc như thế không? Thiên Chúa hiện hữu. Người là Đấng này.. Đấng kia – Bạn có xác tín như thế không?”. Một triết gia tầm cỡ như Descartes đã nói: “Muốn cho khoa học tiến bộ, cần phải biết “hồ nghi”. Cũng vậy, cần phải biết “đặt câu hỏi”, như một thứ điều kiện để phát triển đức tin. Còn Péguy đã diễn dịch như sau: “Có những tâm hồn hoàn toàn khép kín, không để một ngõ ngách nào cho ân sủng thâm nhập. Không có chỗ có thể “thấm ướt” được, thì làm sao có thể tiếp thu… “.
Lạy Chúa, xin ban cho tâm hồn chúng con biết mơ mộng, biết kiếm tìm.
Họ đáp: ‘Thưa Rapbi, (nghĩa là thưa Thầy) Thầy ở đâu?”. Người bảo họ: “Đến mà xem”.
Tìm kiếm… bước theo… cư ngụ… đó là ba thái độ cốt yếu của tình yêu. Tôi có kiếm tìm Thiên Chúa không? Tôi có theo vết chân Người không? Tôi có luôn ở cùng Thiên Chúa không? Đức Giêsu đáp lại lòng mong muốn, thái độ kiếm tìm của họ. Nhưng, cách đáp trả của Người luôn tôn trọng tự do của họ: “Hãy đến mà xem?” Đức Giêsu không bó buộc các ông đi theo. Người không phải là một nhà tuyên truyền, một người quảng cáo, khi cần thiết có thể tìm mọi cách và áp lực người ta hoán cải. Phần tôi, cách tôi sử dụng để trình bày đức tin như thế nào?
“Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều”.
Có những từ mà Gioan không những gặp đi lặp lại.
Không phải ông nghèo ngữ vựng, nhưng ông chú ý sử dụng vậy. Nhờ cách lặp đi lặp lại như thế, ông có thể diễn tả bước tiến của “người môn đệ”: “kiếm tìm”(1,38), “đến xem” (1, 39 và 46), “quan sát” (l,39 và 41), “gặp thầy” (1,41 và 45), “bước theo” (l,37.38.40.43) “ở lại” (l,38.39).
Gioan Thánh sử là một trong hai người đã bước theo Đức Giêsu. Kỷ niệm của ông rất chính xác, như kỷ niệm lần đầu gặp gở của hai người yêu nhau. Ong ghi lại cả giờ giấc sự kiện đó đã diễn ra vào lúc “bốn giờ chiều’, (thời đó người ta gọi đó là giờ thứ mười). Hôm đó, họ đã trao đổi với nhau những gì? Hẳn là hai ông đã kể lại đời sống, những khát vọng, những mong ước, thái độ “tìm kiếm” của họ. Còn Đức Giêsu, có thể Người đã nói cho họ biết về những dự tính, những ước muốn riêng của Người.
“Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Kitô”.
Một nét đặc thù đáng ghi nhận, đó là lời mời gọi của Thiên Chúa, hay “ơn gọi”, thực tế được truyền đến tai con người, nhờ các mối tương quan nhân loại. Để nghe được lời mời gọi của Thiên Chúa, cũng cần phải chăm chú tới tiếng gọi của con người. Đó là những trường hợp của Gioan Tẩy Giả, trước hết ông gọi Anrê và Gioan. Rồi đến lướt Anrê và Gioan lại kêu gọi Simon. Sau này, Philipphê cũng sẽ mời gọi Nathanaen như thế.
Tôi có nuôi tư tưởng khi có dịp sẽ hướng dẫn một người nào đó tới gặp gỡ Đức Giêsu không? Khám phá ra Đức Giêsu rồi, tôi có lo truyền đạt cho kẻ khác hay chỉ biết giữ riêng cho mình?
“Ông dẫn em mình đến gặp gỡ Đức Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Si-mon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan. Anh sẽ được gọi là Kêpha”, “tức là Phêrô”.
Trở nên môn đệ, nghĩa là “thay đổi” đời sống… đó là bước vào một, cuộc phiêu lưu mới, trở nên một “con người mới”. Đó là ý nghĩa việc đổi tên cho Simon. Đối với các môn đệ đầu tiên, mỗi khi hồi tưởng lại, các ông đều cảm thấy việc thay đổi đời sống của mình thật là phi thường .
Đó là khởi đầu cho một định hướng hoàn toàn khác lạ trong đời sống của các ông. Trong não trạng của người Sêmít, việc đổi tên cũng có nghĩa là, Thiên Chúa hoàn toàn ảnh hưởng trên Simon Phêrô. Những con người đó đã “tìm kiếm” Đức Giêsu, đúng vậy? nhưng chính Đức Giêsu cũng kiếm tìm họ… Chinh Người khởi xướng trước nhờ “ân sủng” kỳ diệu của Người. Ơn gọi: vừa là tiếng kêu gọi của con người… vừa là lời mời gọi của Thiên Chúa.