CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN A
Cung Hiến Thánh Đường Latêranô
ĐỨC GIÊSU XUA ĐUỔI
NGƯỜI BUÔN BÁN RA KHỎI ĐỀN THỜ
Chú giải của FICHES DOMINICALES
***
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ đền thờ bằng đá, nơi Đức Giêsu đuổi quân buôn bán
Các thánh sử khác đã đặt câu chuyện này vào cuối thời gian rao giảng của Chúa (Mt 21, 12-17; Mc 1 1, 1 5-17; Lc 19.45- 46). Còn Gioan chủ ý đặt biến cố này vào đầu đời công khai của Chúa. Để như vậy, nêu rõ sự đoạn tuyệt với đạo Do Thái chính thống, lúc đó đang là hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội, đồng thời khôn khéo nối kết Kinh Thánh, các sự kiện và cử chỉ của Đức Giêsu bằng cái nhìn sau phục sinh.
Câu chuyện này xảy ra trong hoàn cảnh Đức Giêsu lên Giêrusalem “bởi vì lễ vượt qua đã đến gần Gioan nhắc lại công thức này 4 lần trong Tin Mừng (Ga 6, 4;1 1, 55) để chuẩn bị cho độc giả thấy lễ Phục sinh của Kitô giáo trùng hợp với lễ Vượt qua của Israel (X.Léon-dufour, “Lecture de L’evangile se lon Jean” cuốn 1, Seuil, trang 253).
Đức Giêsu thấy “trong đền thờ có những kẻ bán chim, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền”? Danh từ ” Đền thờ” nhắc đến ở đây không phải khu vực thánh của ngôi đền, cung thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người. Những người đổi tiền ở đó, là cần thiết, bởi vì đồng tiền chính thức mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma không được dùng trong phụng tự, và buộc phải đổi sang một đồng tiền không dơ. Còn bọn bán chiên, bò, chim bồ câu ở đó để bán những vật cần cho việc hy tế.
Chính trong khung cảnh này mà Gioan đặt cuộc can thiệp của Đức Giêsu, một cuộc can thiệp gồm hành động và lời quở trách.
+ Cử chỉ của Đức Giêsu giống với cử chỉ của các ngôn sứ thời xưa, khi thông báo sứ điệp của các ông. Gioan đã tả hết sức tỉ mỉ với những chi tiết mà không thấy nơi các tác giả nhất lãm: “Đức Giêsu cầm lấy một dây thừng dùng làm roi, Người đuổi những lái buôn chiên, bò, người lật đổ bàn của người đổi tiền bạc; người xua đuổi bọn bán chim bồ câu”.
+ Lời giải thích rất ý nghĩa: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán” – Lời này gọi nhớ ngôn sứ Giacaria 14, 21 loan báo việc tẩy uế Đền thờ được tiên báo vào cuối đời, lúc này đã khởi sự rồi (A.Marchadour, “L’evangile de Jean”, Centurion, trang 60). Lời này tỏ cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa. Khi nói về Đền thờ, Người đã không dùng từ “nhà của Chúa”, mà Người nói “nhà của Cha tôi”.
Những người chứng kiến liền phản ứng tức khắc. Mọi người đều biết lời tiên báo về việc tẩy uế đền thờ. Họ hiểu ngay rằng: Đức Giêsu không những đến như một người cải tổ, chỉ tố cáo những lạm dụng nơi Đền thờ, mà còn như một vị đến để làm cho lời tiên tri thực hiện.
Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”. Bởi vì dưới con mắt họ, quyền thiên sai mà Đức Giêsu tự nhận, cũng như những gì thuộc Đền thờ phải được chuẩn nhận bằng một dấu lạ.
2. Đến đền Thờ mới là Thân Thể của Chúa
Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá Đền Thờ này đi Đền Thớ này “nos”): nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (từ dựng lại” là từ mà thánh ký sau này, câu 22 dùng để chỉ “sống lại ) X Léon-dufour quảng giải: “Trong câu nói long trọng mà chúng ta đang được Đức Giêsu đối chiếu đền thờ sẽ bị phá huỷ với đền thờ mà người sẽ là kẻ xây dựng lại, (, , Lecture de L’evangile, lon Jean”, cuốn 1, Seuil, trang 261).
Những kẻ đối thoại với Chúa càng tỏ ra bực bội và ngạc nhiên. Sự không hiểu nhau về vấn đề Đền Thờ – đây là lần đầu trong một loạt những không hiểu dẫn Người đến núi Canvê – như vậy là hết cứu chữa.
Và cuối cùng, cộng đoàn Kitô hữu đã làm gì khi đọc lại những lời này dưới ánh sáng của Đức Giêsu Phục sinh: “ Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói”.
+ Nhớ lại cử chỉ của Chúa, cộng đoàn Kitô hữu khám phá ra rằng lời Thánh vịnh 69 đã thực hiện, lời mà họ đặt ở tương lai: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”. Họ hiểu ra rằng, câu chuyện Đền Thờ này, mọi tiến trình đã bắt đầu để dẫn Đức Giêsu đến cái chết; rằng đức Giêsu đã trả giá bằng chính mạng sống Người, để thực hiện lời tiên tri về việc tẩy uế Đền Thờ mà Giacaria đã loan báo.
+ Nhớ lại những lời của Chúa về Cung Thánh Đền Thờ:
“ Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại họ hiểu rằng người nói về thân thể Người, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người; nơi mở cửa cho hết thảy mọi người, nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người; là Đền thờ của Giao ước mới.
Và X Léon-dufôur kết luận: ” Có thể nghĩ rằng, đoạn văn đã được biên tập sau năm 70, tức là sau khi đền thờ Giêrusalem thực sự bị phá huỷ, đền thờ mà Israel coi là nơi có sự hiện diện Thiên Chúa. Bởi đó sau khi đền thờ bị phá huỷ. Câu hỏi hóc búa được đặt ra là: cung thánh đã tan tành, vậy từ nay Thiên Chúa hiện diện ở đâu? Theo thúc đẩy của đúc tin, người Do Thái thời đó tin rằng: nơi mà họ gặp Thiên Chúa là Lề Luật. Còn đối với những Kitô hữu, những người còn chăm chỉ lên đền thờ cầu nguyện, câu trả lời sẽ là: Chúa Kitô sống lại hiện diện ở giữa họ khi họ tụ họp để cử hành lễ tưởng niệm Người” (Sđd, trang 266-267).
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. Ơn gọi của chúng ta: làm dấu chỉ sự hiện hiện của Thiên Chúa giữa loài người
(Đức cha Daloz, trong cuốn “Nous avons vu Sa gloire”, Desclée de Brouwer, trang 38-39).
“Ngay từ những chương đầu của Tin Mừng, thánh Gioan đã nói cho chúng ta biết về cuộc hành trình lên Giêrusalem của Đức Giêsu nhân dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Chính trong dịp này, ngài đề cập đến việc tẩy uế Đền thờ, trong khi những thánh sử khác thuật lại việc này sau khi Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem lần cuối. Cử chỉ của Đức Giêsu là cử chỉ của một tiên tri. Người xua đuổi những kẻ mua bán chiên bò để cúng tế và những kẻ đổi tiền ra khỏi đền thờ.
Ở đây hành vi đầy bạo lực của Đức Giêsu là hành vi của một tiên tri, chính các môn đệ của Người cũng hiểu như vậy. Họ nhớ tới lời thánh vịnh: nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. Người Do thái cũng hiểu rõ ý nghĩa của cử chỉ này. Họ đòi Đức Giêsu phải làm một đấu lạ để biện minh cho hành động của mình: “ông lấy dấu lạ nào để chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Đức Giêsu trả lời họ bằng rnột câu bí ẩn, mầu nhiệm: “Các Ông cứ phá huỷ đền thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Chúa có ý nói đến tính cách tạm thời của những hy lễ trong đền thờ của giao ước cũ. Chúa nói về một đền thờ khác, đền thờ mà ở đó sẽ ký kết giao ước mới. Những đền thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”. Chính nơi Đức Giêsu mà từ nay Thiên Chúa bày tỏ sự hiện diện của Người. Cần chờ đến biến cố phục sinh, các môn đệ mới nhớ lại và tin vào Kinh Thánh và những lời Chúa đã nói. Chính đền thờ mới, thân thể Đức Kitô và nhà của Chúa Cha, mà tạ ngày nay cần phải gìn giữ, đừng biến nó thành nơi buôn bán. Ta cần phải hết sức cung kính đối với lễ vật của giao ước mới, đã thay thế cho lễ vật hy sinh của đền thờ ngày xưa. Ta cần phát hết lòng tôn trọng đốt với thân thể mầu nhiệm, mà Đức Giêsu là đầu, thân thể có ơn gọi làm dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại”.
2. Một đền thờ mới xây dựng những viên đá sống (H.Denis, trong cuốn “1OO mots pour dire la foi”, Desclée de Brouwer, trang 39-40).
Đức Giêsu làm một cuộc cách mạng, tật đổ cấu trúc tôn giáo. Không những người muốn cho người ta hiểu rằng những ngôi đền thờ vật chất trở nên vô dụng, mà Người còn muốn tỏ cho biết một ngôi đền thờ mới, đích thực là thân thể Người, đã chết đi và sống lại.
Đền thờ mới là chính Người, trong Người tình yêu của Thiên Chúa và của con người chuyển thông nhau trong một cuộc hiệp thông duy nhất.
Thật là một giao hoán lạ lùng. Nhưng chưa hết. Tân ước còn thêm rằng ngôi đền thờ này mà Đức Giêsu là viên đá góc, được xây dựng bằng những viên đá sống là các Kitô hữu, và nói rộng ra là toàn thể nhân loại. Là đền thánh, bởi vì nó không được làm bằng đá, gạch hay bất cứ vật liệu cao quí nào, nhưng bằng những con người, con người được kêu gọi để thương yêu nhau, để hiến mạng sống cho nhau, nhờ đó lưu thông tình yêu vô hạn của Đức Giêsu.
3. Thánh lễ Chúa nhật: lúc dân mới kết hợp nên một thân thể hữu hình
(Thơ mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Pháp “Lettre aux catholiques de France”, Cerf, 93-94).
Trong tiệc Thánh Thể, các cộng đoàn ý thức hơn về tầm quan trọng của mình trong đời sống của Giáo Hội. Nhưng điều tuyệt đối cần thiết là phải canh tân rộng khắp ý nghĩa của việc cử hành ngày Chúa nhật, hiểu như thời điểm mà dân mới, gồm những người đã được rửa tội, làm nên thân thể hữu hình, để đáp lại lời Đức Kitô mời gọi các môn đệ, kêu gọi họ dâng hiến sự sống kết hiệp với của lễ Đức Giêsu Kitô để thế giới được sống. Chúng ta hết thảy đều có lần cảm nghiệm những lần cử hành cởi mở, đầm ấm, khiến ta dường như cảm nhận được ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng, nhờ đó, ta được bồi dưỡng sức lực để tiếp tục lên đường. Điều đó không chỉ là một lý tưởng viễn vông đối với các cộng đoàn, nhất là nếu những cảm nhận và những truyền thống tu đức biết hoà hợp những đòi hỏi mà đôi khi người ta lầm tưởng là đối nghịch nhau, như tôn trọng truyền thống phụng vụ, kêu gọi mọi thành phần tham gia tích cực, và sự góp phần của thẩm mỹ và mỹ thuật vào phụng vụ. Như vậy, việc thực hiện lễ tạ ơn không thể tách rời khỏi ý thức về thừa tác vụ được uỷ thác để ban sự sống và xây dựng cộng đoàn Giáo Hội.
(*) Đây là bản văn chú giải cho TM CN III MC A