CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
NGƯỜI RỜI KHỎI CÁC ÔNG (*) – Chú giải của Noel Quession. 7
CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN- Chú giải của Fiches Dominicales 15
CUỘC TỪ BIỆT MANG CHIỀU KÍCH PHỤNG VỤ(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông 21
CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 36
CÁC CON LÀ CHỨNG NHÂN- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 60
NIỀM HI VỌNG NƯỚC TRỜI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 77
NHỮNG CHỨNG NHÂN MỚI (*)- Lm. Trần Thanh Sơn. 80
CHÚA VỀ QUÊ– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 86
CHỨNG NHÂN– Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 90
CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ. 96
MỪNG CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC.. 100
SỐNG MẦU NHIỆM LÊN TRỜI – Lm. Thiện Duy. 104
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NĂM C
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
BÀI ÐỌC I: CV 1, 1-11
“Trước sự chứng kiến của các ông, Người lên trời”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Hỡi Thêôphilê, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những điều Ðức Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, cho đến ngày Người lên trời, sau khi căn dặn các Tông đồ, những kẻ Người đã tuyển chọn dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày và đàm đạo về Nước Thiên Chúa. Và trong một bữa ăn, Người đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa. Người nói: “Như các con đã nghe chính miệng Thầy rằng: Gioan đã làm phép rửa bằng nước, phần các con, ít ngày nữa, các con sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vậy các kẻ có mặt hỏi Người rằng: “Lạy Thầy, có phải đã đến lúc Thầy khôi phục Nước Israel chăng?” Người bảo họ rằng: “Ðâu phải việc các con hiểu biết thời gian hay kỳ hạn mà Cha đã ấn định do quyền bính Ngài. Nhưng các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông.
Ðang khi các ông còn ngước mắt lên trời nhìn theo Người đang xa đi, thì bỗng có hai người mặc áo trắng đứng gần các ông và nói rằng: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Ðức Giêsu, Ðấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời”.
Ðó là lời Chúa.
ÐÁP CA: Tv 46, 2-3. 6-7. 8-9
Ðáp: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng, Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang (c. 6).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Hết thảy chư dân, hãy vỗ tay,hãy reo mừng Thiên Chúa tiếng reo vui!Vì Chúa là Ðấng Tối cao, khả uý,Người là Ðại Ðế trên khắp trần gian.
2) Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng,Chúa ngự lên trong tiếng kèn vang. Hãy ca mừng, ca mừng Thiên Chúa, hãy ca mừng, ca mừng Vua ta!
3) Vì Thiên Chúa là Vua khắp cõi trần gian, hãy xướng ca vịnh mừng Người. Thiên Chúa thống trị trên các nước, Thiên Chúa ngự trên ngai thánh của Người.
BÀI ÐỌC II: Ep 1, 17-23
“Người đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời”.
Trích thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xin Thiên Chúa của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, để nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi, thế nào là sự phong phú gia nghiệp vinh quang nơi các thánh, và thế nào là quyền năng vô cùng lớn lao của Người đối với chúng ta, là những kẻ tin, chiếu theo hành động của sức mạnh quyền năng Người, công việc mà Chúa đã thực hiện trong Ðức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại, và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần, và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Ngài, và tôn Ngài làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Ngài, và là sự sung mãn của Ðấng chu toàn mọi sự trong mọi người.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 28, 19 và 20
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 24, 46-53
“Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời”.
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống”. Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông. Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng. Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NĂM C
NGƯỜI RỜI KHỎI CÁC ÔNG (*) – Chú giải của Noel Quession
Cũng như đối với trình thuật về cuộc Thương khó và Phục sinh, ta nên suy niệm những trình thuật khác nhau về biến cố Thăng Thiên được ghi lại cho ta: suy niệm tận nguồn gốc đặc biệt của chúng, để khỏi lẫn lộn Người với một thứ hình tượng -người máy.
Năm nay, chúng ta có may mắn được nghe hai trình thuật diễn tả cùng một biến cố do cùng một tác giả thuật lại đó là Luca. Thật rõ ràng, nếu Luca không nỗ lực dung hòa toàn diện hai đoạn văn mô tả của ông, là vì theo ông, chính những khác biệt đó có một ý nghĩa… vượt qua tính lịch sử được hiểu theo nghĩa hẹp.
Trong Tin Mừng, Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay chiều hôm Phục sinh, và chác chắn ngay trong đêm tiếp theo ngày thứ nhất trong tuần (Lc 24, 1. 24, 13. 24, 36. 24, 50), nếu ta nhớ lại khi các môn đệ làng Em-mau vào bàn ăn, thì “trời đã muộn “ (Lc 24, 29), và các ông phải đi bộ khoảng 12 cây số trong “hai tiếng đồng hồ “ (Lc 24, 13) để trở lại Giêsusalem. Còn Đức Giêsu đã mất giờ giải thích Lề luật, các ngôn sứ và Thánh Vịnh liên hệ đến Người, với các môn đệ (Lc 24, 44) ngay chiều Phục sinh…
Trước khi dẫn họ đến Bê-tha-ni-a, ở đó Người được đem về trời (Lc 24, 50). Trái lại, trong Công vụ Tông đồ, cũng chính Luca xác định biến cố Thăng Thiên vào lúc kết thúc “bốn mươi ngày” (Cv 1,3). Ngoài những tưởng tượng có tính cách ấu trĩ mà ta cần phải từ bỏ, hiển nhiên là giữa những lần “hiện ra” khác nhau của Người, Đức Giêsu không lánh ẩn trong một khu phố tại Giêrusalem, trong một nơi bí mật, để chờ đợi “ên” trời về cùng Chúa Cha! Thực sự, Phục sinh, Thăng Thiên và Hiện xuống, là ba khuôn mặt của cùng một “mầu nhiệm” duy nhất: bởi vì vừa sống lại, thì Đức Giêsu đã bước vào vinh quang của Chúa Cha và ngự bên hữu Người “ theo kiểu nói của khải huyền. Đặc biệt, Luca nhấn mạnh đến sự kiện Đức Giêsu “rời bỏ “ những kẻ mà Ngài đã cho họ được gặp mặt… Người biến mất trước cái nhìn của họ (Lc 24, 31 – 24, 51).
Như thế, Thăng thiên vào chiều tối Phục sinh xảy ra để gắn liền cuộc sống nhân loại của Đức Giêsu với việc tôn vinh quyền năng Thiên Chúa của Người…và đó là trang cuối cùng của Tin Mùng!
Trong khi biến cố Thăng Thiên vào “ngày thứ bốn mươi” để bắt đầu cuộc sống mới của Đức Giêsu vượt qua không gian và thời gian… thì cũng là lúc khởi sự trang đầu tiên của Công vụ Tông đồ! Kết thúc thời gian của Đức Giêsu Nadarét…là bắt đầu thời kỳ của Giáo hội.
Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.
Đức Giêsu nói: “Khi Thầy còn ở với anh em”. Điều đó chứng tỏ rằng Người không còn ở trái đất như trước nữa. Thăng thiên sắp tới chỉ lặp lại những gì đã diễn ra do biến cố Phục sinh: từ đây trở đi, sự hiện diện của Chúa Phục sinh, dù có thực sự đi nữa, thì cùng ở trong một trạng thái khác… Người đã bước vào thế giới của Thiên Chúa rồi.
“Việc ứng nghiệm… và hiểu biết Kinh Thánh!”. Đức tin là phương thế duy nhất để đạt được “thế giới của ‘Thiên Chúa” mà Đức Giêsu đang hiện diện, vì giờ đây Người “không còn ở với chúng ta theo cùng một cách thức như trước nữa”. Ngay trên bước đường đi đến Em-mau, Đức Giêsu đã khiển trách hai người đồng hành với Người là những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin” (Lc 24, 25).
“Như sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy”. Chỉ khi sống lại, Người mới giải thích Kinh thánh: thực vậy, cần phải “chết đi sống lại”, để khi người ta đọc lại Kinh Thánh, mới có thể nhận ra điều đó đã được loan báo. Do đó, trong đời sống của chúng ta, có một số những biến cố đột nhiên xảy đến, soi sáng trở lại những sự việc, những lời nói mà trước đó chúng ta chưa hiểu được cách sâu xa.
“Các Thánh Vịnh”: Đức Giêsu đã thuộc lòng và hằng ngày dùng Thánh vịnh để cầu nguyện. Còn tôi thì sao? Liệu tôi có đủ độ nhớ chỉ một Thánh Vịnh để cầu nguyện, nhất là một trong những Thánh Vịnh nói về Đức Giêsu không?
Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này”.
Luca nhấn mạnh đến sự kiện: chỉ nhờ biến cố Phục sinh, các môn đệ mới hiểu được “những lời Kinh Thánh chép”. Như thế, đời sống của riêng ta, đời sống của mọi người, đời sống của những kẻ mà ta vẫn tưởng rằng mình có tương quan thân mật nhất… chỉ sáng tỏ trong ngày của Chúa. Đúng vậy, những biến cố liên hệ đến cuộc đời của Đức Giêsu, trước ngày đó, vẫn làm cho các môn đệ hoang mang, khó hiểu! “Đau khổ” của Đức Giêsu trên thập giá, có vẻ như một sự ngẫu nhiên, một tai nạn, một thất bại. Nhưng giờ đây họ mới khám phá ra, đó là sự ứng nghiệm chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha: “Cần phải ứng nghiệm không gì đã được Kinh Thánh báo trước… “. Đó không phải là một định mệnh, cũng không phải là một số mệnh nghiệt ngã và khắt khe… mà là một chương trình yêu thương! Nhưng cho tới ngày đó, họ chưa nhận ra. Giờ đây, họ sắp trở nên chứng nhân cho những điều đó. “Ngày Phục sinh ngày dài nhất của thời gian… “Ngày thứ nhất” đó sẽ kéo dài, tới vô tận! Không có ngày nào khác như thế nửa. Ta hiểu ra rằng, Luca đã muốn gom cách tiêu biểu để cả trong ngày duy nhất đó, và ngày này sẽ được kéo dài qua đời sống chứng tá của Giáo hội suốt dòng lịch sử. Hiện nay, chúng ta có luôn là “nhân chứng” cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không? Đức Giêsu, trước thái độ kịch liệt công phẫn của những người được coi là “sạch” đã nghiêng về phứa những người Samari ngoại giáo… những kẻ lạc đường, đĩ điếm, ngoại tình… những kẻ dốt nát, bị nhóm Pharisêu và thông giỏi khinh bỉ… những kẻ thông đồng với dân ngoại, những người thu thuế cộng tác với đế quốc Rôma… mọi người nghèo khổ bị xã hội ruồng bỏ, những kẻ thấp kém, bệnh tật, phong cùi. Thay vì ra hình phạt của Thiên Chúa mà lề luật đòi buộc, Đức Giêsu lại loan báo “ơn tha thứ” không giới hạn, không loại trừ một người nào khỏi ơn cứu độ phổ quát được cống hiến cho mọi người, bắt đầu từ Giêrusalem”. Đúng vậy, Thiên Chúa là Cha những người tội lỗi. Người tha thứ cho mọi người. Và noi gương Thiên Chúa, ta cũng phải tha thứ cho mọi người, ngay cả những kẻ thù của mình! Vì đã rao giảng những điều như thế nên Đức Giêsu đã bị kết án và bị đóng đinh như kẻ “phạm thượng”. Nhưng rõ ràng việc sống lại minh chứng rằng, Ngài đã có lý. Những người đại diện cho lề luật bị lên án. Đấng chịu đóng đinh luôn sống động. Mọi điều Đức Giêsu đã giảng dạy và hành động… sẽ tiếp tục và được chính Thiên Chúa minh chính hóa.. “Anh em sẽ là chứng nhân! “.
Lạy Chúa, Chúa đòi chúng con phải thay đổi trở về thế nào đây? Thực sự, chúng con chưa làm chứng đầy đủ cho tình yêu cứu độ phổ quát!
Và đây chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.
Họ rất cần điều đó. Chúng ta cũng rất cần điều đó, cần “quyền năng” không do ta, chứng từ trời cao ban xuống! Bởi vì các môn đệ sắp phải sống và rao giảng trong một thế giới, bề ngoài chưa có gì thay đổi cả: sự dữ bạo lực, hận thù, chết chóc… độc ác, tà thuyết, sai lầm, dốt nát, áp lực đủ thứ… vẫn còn tiếp diễn.
Đấng sẽ trao ban quyền năng đó… ở đây không nêu tên… bởi vì, cũng như Chúa Cha “không ai trông thấy bao giờ.. và khác với Đức Giêsu, Đấng là khuôn mặt hữu hình của Thiên Chúa… Thần Khí không có dạng hình. Hay, đúng hơn Ngài mang bộ mặt của ta, theo cách nói của Thánh Phaolô: “Anh em là thân thể của Đức Kitô. Khi cây nến Phục sinh được tắt đi vào Lễ Thăng Thiên, thì độ là lúc các ngọn lửa được thắp sáng:để xâm chiếm mỗi người môn đệ vào Lễ Hiện Xuống.
Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được lên trời.
Đó là sự “rời khỏi”. Chỉ mình Luca sử dụng từ ngữ đây ý nghĩa đó.
So sánh với cùng một trình thuật trong Công vụ Tông chúng ta nhận thấy có nét giản dị hơn. Ở đây, không có yếu tố mô tả nào, không có “đám mây” cũng không có hai Người mặt áo trắng”. Không phải là Luca không hay biết tới ngôn ngữ khải huyền. Trong một trình thuật khác, ông sẽ sử dụng thứ ngôn ngữ này. Nhưng trong đoạn văn trên, ông muốn tương đối hóa, đơn giản hóa nó.
Tất cả đều rất bí mật, và chúng ta thử dõi theo Đức Giêsu xem sao: “Người dẫn các ông… “, “Người giơ tay chúc lành cho các ông”. “Người rời khỏi các ông để trở về với Chúa Cha trên trời”.
Chưa bao giờ Đức Giêsu đã “chúc lành” cho các tông đồ. Nhưng đây là một cảnh từ biệt. Luca có ý nối kết lại một truyền thống Kinh Thánh phong phú. Các nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh thường kết thúc đời mình bằng một cử chỉ chúc lành cho những kẻ tiếp sau: Giacóp (St 49), Môsê (Đnl 33), Đavit (1Sb 28-29). “Phép lành” của Đức Giêsu là cử chỉ cuối cùng của Người. Một cử chỉ mà Người sẽ không ngừng thể hiện, nhờ mỗi linh mục, đại diện của Người, làm lại trên chúng ta vào lúc chào tạm biệt trong Thánh lễ, bằng cách “giơ tay lên” để chúc lành cho chúng ta nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa.
Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giênlsalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Thật là nghịch lý! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn, lại vui tươi. Cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu đã trở thành nhóm người “tôn thờ” Đức Giêsu và cùng nhau “ca tụng Thiên Chúa”. Đức Giêsu ở “trên trời”. Các môn đệ của Người ở “trong Đền Thánh’. Đó chỉ là một biểu tượng… một sự đối xứng. Một phụng tự mới.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN – NĂM C
CHÍNH ANH EM LÀ CHỨNG NHÂN- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
*1. Đối với Đức Giêsu: hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua.
Trong sách Công Vụ Tông đồ, chúng ta đã đọc thấy biến cố Lên Trời xảy ra vào ngày thứ Bốn mươi sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin Mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh. Làm như thế Luca muốn nêu bật tính thống nhất không thể tách biệt của mầu nhiệm vượt Qua: biến cố Lên Trời biểu lộ vinh quang của Đấng Phục sinh và quyền bá chủ thần linh của Người. biến cố ấy đóng dấu ấn kết thúc cuộc đời và Tin Mừng của Đức Giêsu bằng việc tôn phong thiên quốc của Đấng Mêsia. Mâu thuẫn rõ ràng về thời gian – điều hoàn toàn tương hợp với cách hành văn của thời ấy – không nhằm mục tiêu nào khác hơn là phô bày tất cả vẻ phong phú của biến cố cứu độ này.
Sau khi tỏ mình cho các môn đệ nhận ra mình: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà” (c.39). Đức Giêsu mở tâm hồn cho họ hiểu ý nghĩa của biến cố phục sinh: “Tất cả những gì sách luật Môsê, sách các ngôn sứ và các Thánh vịnh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (c.44). Tất cả những gì các ông vừa trải qua cùng với Người, đều hiện rõ ý nghĩa dưới ánh sáng của Thánh Kinh, và chính Thánh Kinh được thực hiện hoàn hảo trong mầu nhiệm Vượt Qua: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại rồi phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.
Khi dẫn các môn đệ tới tận Bêtania, giờ đây Đức Giêsu từ biệt và chúc lành cho các ông là những người kế thừa mình theo cách các thánh tổ phụ chúc lành cho các con vào lúc lìa cõi thế..
Và đang khi Ngươi được “đem lên trời” các môn đệ “phủ phục bái lạy Người”, một cử chỉ tôn thờ chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi.
Mặc dầu chia ly hoặc phải chia ly, nhưng tất cả mọi người đều chấp nhận từ nay không còn được trông thấy, mà chỉ sống bằng lòng tin nên các môn đệ cũng “lòng đầy hoan hỉ”, “các ông trở lại Giêrusalem, ở trong Đền thờ” – nơi mọi việc đã khởi đầu khi thiên thần báo tin cho ông Dacaria – các ông “không ngớt chúc tụng Thiên Chúa”.
Roland Meynet quảng giải: “Các môn đệ xem thấy Đức Giêsu lần cuối, cuộc chia ly thế là dứt khoát rồi. Tuy nhiên, các ông không buồn sầu, ngược lại, các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Chính là vì Thầy không đi vào cõi chết như họ đã trông thấy ba ngày trước, nhưng được đưa lên trời, đến cùng Chúa Cha. Các ông bái lạy Người và không ngớt chúc tụng Thiên Chúa. Nếu Đền thờ là nơi và là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Người, thì các ông biết rằng: nếu các ông luôn ở lại trước mặt Đấng tối Cao, các ông sẽ không phải xa cách Đấng vừa về với Ngài. Liệu các ông có lòng đầy hoan hỉ như thế, nếu các ông không tin chắc rằng Đức Giêsu luôn ở với các ông, mặc dầu không trông thấy? Xem như nghịch lý: cuộc chia ly đối với các ông lại trở thành dấu chỉ rằng Đức Giêsu luôn ở bên các ông. (L’Evangile selon saint Luc, Cerf cuốn 2, trg 239).
*2. Đối với Hội Thánh: Khai mở một kỷ nguyên mới.
Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Glêsu, mà còn tiếp tục trong Hội Thánh. Sứ điệp Tin Mừng được hoạch định “cho muôn dân”, được rao giảng “bắt đầu từ Giêrusalem”.
“Anh em là chứng nhân của những điều đó”. Đức Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ như vậy. Và trước khi lìa bỏ các ông để “được đưa lên trời”, Người loan báo cho các ông biết rằng, các ông sẽ “nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”, quyền năng mà Cha đã hứa, để hoàn thành sứ mạng vĩ đại vượt quá sức riêng của các ông.
Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Một kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc ‘I’in Mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất. Công việc gieo trồng này sẽ bội thu, bởi vì nó bắt rễ lừ những gì vừa hoàn thành lại Giêrusalem, đó là việc “Đức Giêsu chịu khổ nạn, sống lại và sự sám hối được rao giảng nhân danh Người để được ơn tha tội”.
BÀI ĐỌC THÊM:
*1. Loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng hành động (G. Bessiere: ‘Dieu si proche’ Năm C, DDB, trg 68-69).
Tận cùng lại là một khởi đầu.
Mọi sự đều xảy ra tại Giêrusalem.
Các môn đệ đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu, Người đã phục sinh. Các ông đã bắt đầu hiểu rằng sự việc phải đi tới đích điểm đó và phải được hoàn thành cách vinh quang. “Cần phải…”. Đây không phải là do định mệnh an bài. Cụm từ đó chỉ có ý nói rằng mọi biến cố tìm được ý nghĩa trong Thiên Chúa và chúng là tiếp nối của một quá khứ cao quý nhất. Một nụ hoa hé nở, một việc kỳ diệu Thiên Chúa làm ở giữa dân Người.
Đức Giêsu được “đưa lên trời”. Những lời trăn trối cuối cùng của Người là lệnh “sai đi”, và là lời loan báo cho họ một sức mạnh từ trời cao, đó là Thần Khí được ban xuống, Thần Khí mà các Ngôn sứ đã loan báo. Từ nay, những con người ấy sẽ mang trên tay và trong trái tim ơn tái sinh. Các ông sẽ làm lây lan ơn Thiên Chúa, biến đổi cả nhân loại. Đức Giêsu đi về cùng Cha Người, cốt để các ông ra đi đến tận cùng trái đất.
Cử chỉ cuối cùng của Đức Giêsu thâu tóm cả cuộc đời của Đức Giêsu trên trần gian: “Đang khi giơ tay chúc lành cho các ông, thì Người lìa các ông…”. Đức Giêsu lên trời đang khi chúc lành, hình ảnh cuối cùng đó sẽ còn mãi: bàn tay đang chúc phúc.
Còn các ông “lòng đầy hoan hỉ” và “các ông không ngớt chúc tụng Thiên Chúa trong đền thờ”. Giữa trời và đất, giữa đất với trời, lời chúc phúc được giao lưu.
Giờ đây các môn đệ Đức Giêsu – những môn đệ thời xưa và những môn đệ thời nay – cần phải loan báo Tin Mừng cho đến tận cùng thế giới và tận cùng lịch sử, bằng lời nói và bằng hành động. Phải không ngớt chúc tụng.
*2. Được sai đi truyền giáo thế chân các tông đồ.
Đức Giêsu đã lên trời thế nào? Ta hãy nghe thánh Luca tường thuật thật giản dị: “Đức Giêsu lìa khỏi các môn đệ và được đưa lên trời”.
Có điều lạ là các môn đệ không biến cuộc chia ly thành một tấn bi kịch. Tác giả thuật lại rằng các ông trở lại Giêrusalem lòng đầy hoan hỉ. Dường như các ông đã được soi sáng cho hiểu rằng: Đức Giêsu đã hoàn thành trọn vẹn sứ mạng cứu thế của Người. Từ nay đến lượt các ông có nhiệm vụ làm chứng.
Biến cố Lên Trời cho thấy công trình cứu độ này đã hoàn thành; mọi điều Thánh Kinh loan báo đều là lời của Thiên Chúa. Tất cả đều đã được thực hiện, cả đến việc phục sinh. Từ nay, làm cho thế giới sám hối trở lại.
Biến cố Lên Trời chứng tỏ rằng Đức Giêsu chuyển giao nhiệm vụ cho các chứng nhân. Giờ đây đến lượt các môn các đệ hoạt động. Họ có nhiệm vụ làm cho kế hoạch đã được hoàn thành nơi Đức Giêsu được tỏ hiện cho mọi dân mọi nước.
Đồng thời biến cố lên Trời cũng còn la một lời hứa. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho các chứng nhân của Đức Giêsu. Một sức mạnh nội tâm sẽ được ban xuống cho họ từ trời cao. Sức mạnh ấy củng cố trí tuệ và tâm hồn các ông, sẽ biến các ông nên can đảm.
Biến cố Lên trời là lơi chúc phúc từ trời. Một phúc lành làm cho con người cảm nghiệm năng lực của Thiên Chúa thấm nhập vào mình, cảm thấy mình được tôn trọng trong tự do và có khả năng sáng tạo để đạt kết quả.
Biến cố Lên Trời còn được tiếp nối bằng lời cầu nguyện vui tươi và tinh thần hoan hỉ. Các môn đệ không bị mồ côi chút nào. Các ông có Chúa Thánh Thần ở cùng. Các ông ở nhà của Người là Đền thờ. Các ông ca tụng những thiện hảo của Thiên Chúa. Các ông chúc tụng Người.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN – NĂM C
CUỘC TỪ BIỆT MANG CHIỀU KÍCH PHUNG5 VỤ(*)- Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Lễ Thăng Thiên tưởng niệm hai biến cố đồng một lúc: cuộc Thăng Thiên hữu hình của Chúa Ki-tô có các Tông Đồ là những chứng nhân và cuộc Thăng Thiên vô hình của Chúa Giê-su không có bất kỳ một nhân chứng nào.
Cv 1: 1-11
Sách Công Vụ tường thuật biến cố Thăng Thiên hữu hình, sau khi nhắc lại cuộc gặp gỡ sau cùng của Đấng Phục Sinh với các môn đệ Ngài.
Dt 9: 24-28; 10: 19-23
Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái gợi ra biến cố Thăng Thiên vô hình: cuộc trở về mầu nhiệm của Chúa Giê-su bên cạnh Chúa Cha, từ đó xuất phát những thành quả thiêng liêng: Chúa Giê-su khai đường mở lối vào cung thánh trên trời cho tất cả mọi người, nhờ hy tế thập toàn của Ngài, trổi vượt vô cùng tận so với hiệu quả tạm thời của hy tế mà vị thượng tế Cựu Ước dâng tiến trong đền thờ Giê-ru-sa-lem tại thế.
Lc 24: 46-53
Phần cuối Tin Mừng Lu-ca tường thuật việc Chúa Phục Sinh từ biệt các môn đệ và được rước lên trời.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)
Bài Đọc I trích phần đầu sách Công Vụ Tông Đồ, được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng Lu-ca: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, cùng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô, nhất là nhắc lại “quyển thứ nhất”, tức là sách Tin Mừng Thứ Ba.
Quả thật, sách Tin Mừng Lu-ca hoàn tất với biến cố Thăng Thiên: “Người rời bỏ các ông và được rước lên trời…” (Lc 24: 52) trong khi sách Công Vụ Tông Đồ bắt đầu với việc nêu lên hai lần cùng một biến cố: “Cho đến ngày Ngài được rước lên trời” (Cv 1: 2) và “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn trông thấy Người nữa” (Cv 1: 9). Như vậy, bằng kỷ thuật văn chương, thánh Lu-ca trình bày biến cố Thăng Thiên vừa hoàn tất sách Tin Mừng Thứ Ba và vừa khởi đầu sách Công Vụ Tông Đồ: hoàn tất sự hiện diện hữu hình của Đức Ki-tô và khởi đầu sự hiện diện vô hình của Ngài ở giữa loài người; hoàn tất sứ mạng tại thế của Đức Giê-su và khởi đầu sứ mạng của các Tông Đồ.
*1.Hai biến cố Thăng Thiên:
Chúng ta có thể phân biệt một cách nào đó hai biến cố Thăng Thiên:
-Biến cố Thăng Thiên hữu hình là cuộc lên trời của Đức Giê-su trước mắt các Tông Đồ. Biến cố này chủ yếu liên quan đến chúng ta: bản tính nhân loại, cùng với Đức Kitô, sẽ được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, cuộc Thăng Thiên hữu hình nầy loan báo cuộc Thăng Thiên của chúng ta.
-Biến cố Thăng Thiên vô hình và mầu nhiệm không có nhân chứng là cuộc trở về cùng Cha Ngài ngay khi Ngài sống lại; đó là cuộc hội ngộ Ba Ngôi, biến cố thần linh tuyệt mức. Đó là cuộc tôn vinh của Chúa Con, cuộc tôn vinh mà Đức Giê-su xin trong lời nguyện hiến tế của Ngài trước giờ tử nạn: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.” (Ga 17: 5).
*2.Ý nghĩa của biến cố Thăng Thiên hữu hình:
Tại sao Đức Giê-su từ biệt các môn đệ mà lên trời cách ngoạn mục như thế, dù nhanh và kín đáo? Trong cuộc gặp gỡ sau cùng của Ngài với các môn đệ, đáng ra Đức Giê-su chỉ cần loan báo cho họ biết rằng Ngài sẽ không hiện ra với họ theo cách thế này nữa, rồi biến mất như Ngài đã làm trong suốt bốn mươi ngày từ khi Ngài sống lại?
Chúng ta có thể gặp thấy câu trả lời: biến cố Thăng Thiên hữu hình là cách thức Đức Giê-su giới thiệu cuộc sống tiền hữu và nhập thể của Ngài khi thi hành sứ mạng công khai của Ngài. Ngài đã tự nhận mình dưới danh hiệu “Con Người”, nhân vật huyền nhiệm mà ngôn sứ Đa-ni-en thấy trong một thị kiến “đến trên mây trời” (Đn 7: 13). Đức Giê-su đã quả quyết với ông Ni-cô-đê-mô: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13). Trong bài diễn từ về bánh hằng sống, Đức Giê-su đã nêu lên sáu lần Ngài là “bánh từ trời xuống” và cuối cùng Ngài chấm dứt bằng những lời như sau: “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Qua những lời trên, Đức Giê-su không thể nào loan báo rõ ràng hơn biến cố lên trời trong tương lai của Ngài.
*3.Những lần hiện ra hữu hình của Đấng Phục Sinh:
“Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”: Nếu con số bốn mươi ngày không chính xác thì cũng chẳng quan trọng gì, biết bao ý nghĩa được chất chứa ở nơi con số này: nó hình thành nên một đối chiếu với bốn mươi ngày Đức Giê-su đã trải qua trong hoang địa giữa phép rửa của Gioan Tẩy Giả và khởi đầu cuộc sống công khai của Ngài để chuẩn bị cho sứ mạng cứu độ của Ngài. Bốn mươi ngày là khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên, Đấng Phục Sinh chuẩn bị cho sứ mạng của các môn đệ Ngài.
Chúng ta có thể thắc mắc Đấng Phục Sinh đã sống như thế nào trong suốt bốn mươi ngày. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một cách nào đó cách sống nầy. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào không nghĩ đến sách Tô-bi-a (12: 15-21). Sau khi đã hoàn thành sứ mạng trần thế của mình, thiên sứ Ra-pha-en bày tỏ cho hai cha con ông Tô-bi-a căn tính đích thật của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa…Bình an cho các ngươi! …Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi … do ý muốn của Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy. .. Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi” Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa… (Tb 12: 16-22).
*4.Phép rửa trong Thánh Thần:
Trước khi từ biệt các Tông Đồ, Đức Giê-su dặn dò những lời sau hết và loan báo cho họ biết trong ít ngày nữa họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần: “Ông Gioan đã làm phép rửa bằng nước còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần” (1: 5)
Vào lúc đó, các ông hỏi Ngài một câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Câu hỏi này cho thấy giấc mộng chính trị xưa kia của họ: khôi phục nền độc lập Ít-ra-en, vẫn còn nung nấu trong lòng của các ông. Đức Giê-su không quở trách họ. Ngài mượn một hình ảnh khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá không gian Giu-đê nhỏ bé, nó sẽ mang tầm mức thế giới (1: 7-8). Nhưng vào lúc nầy, vì chưa nhận được ân ban Thánh Thần, họ chưa thể nào hiểu được.
*5.Một đám mây quyện lấy Chúa Giê-su:
Không cốt là một đám mây nào đó, nhưng là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa như thường xảy ra trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về biến cố Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng đã phủ bóng trên Đức Ma-ri-a vào lúc Mẹ thụ thai đồng trinh; ở đây cũng đám mây quyện lấy Đức Giê-su vào lúc Ngài từ giả cõi thế. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ nói tiếng “Xin Vâng”, ở đây cũng có các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.
*6.Thời gian thi hành sứ vụ:
Sức mạnh từ trên cao sẽ thúc đẩy các môn đệ dấn thân vào một cuộc mạo hiểm truyền giáo lớn lao: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (1: 8). Chúng ta đừng ngạc nhiên khi Lu-ca trích dẫn Giê-ru-sa-lem trước tiên vì sách Tin Mừng Lu-ca đặt Giê-ru-sa-lem làm trung tâm điểm của ơn Cứu độ.
Đây là lúc phải hành động chứ không là lưu luyến cách vô bổ như thiên sứ nhắc nhở các ông: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?… Đức Giê-su cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời”. Họ phải bắt tay vào công việc lớn lao và Giáo Hội không ngừng theo đuổi. Thật lý tưởng khi vừa nuôi dưỡng tấm lòng của mình luôn luôn hướng về quê trời vừa biết liên kết giữa hành động và chiêm niệm.
BÀI ĐỌC II (Dt 9: 24-28; 10: 19-23)
Đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái này bàn đến cuộc Thăng Thiên của Chúa Giê-su theo quan điểm đặc thù. Tác giả đề xuất chiều kích thần học và tính hiệu quả thần thiêng của cuộc Thăng Thiên bằng cách so sánh với sự kiện vị thượng tế Cựu Ước tiến vào nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem một năm một lần. Chúng ta biết rằng tác giả Thư gởi tín hữu Do thái coi sứ vụ của Chúa Giê-su là chức vụ tư tế và trình bày Chúa Giê-su là vị thượng tế thập toàn.
Chúng ta không biết rõ tác giả Thư gởi tín hữu Do thái là ai; nhưng chúng ta dễ dàng nhận ra ông ngỏ lời với người Ki-tô hữu gốc Do thái qua những ám chỉ trong Thư này, ví dụ như phụng vụ Đền Thờ được gợi ra. Thư gởi tín hữu Do thái chắc chắn được viết trước năm 70, vì vào năm này Đền Thờ bị thiêu hủy, hàng tư tế phục vụ Đền Thờ và các hy tế tiến dâng trong Đền Thờ không còn nữa. Vì thế, những lời tác giả khuyên bao gồm những điểm nhấn mang tính thời sự vượt quá sự hiểu biết của chúng ta.
*1.Chức tư tế cao trọng của Chúa Ki-tô:
“Quả thế, Đức Ki-tô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật” (Dt 9: 24). Sự so sánh này được khai triển sâu xa suốt bức thư này dựa trên nghi thức lễ Xá Tội một năm một lần, vào ngày đại lễ đó vị thượng tế tiến vào nơi cực thánh, biểu tượng nơi Thiên Chúa ngự trị giữa dân Ngài trên cõi thế. Với cử chỉ này, vị thượng tế toan tính tiến gần Thiên Chúa chừng nào có thể để cầu xin Ngài tha thứ tội lỗi cho chính mình và cho dân của mình qua việc dâng tiến máu tế vật. Còn Chúa Ki-tô đã tiến vào cung thánh trên trời để “giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta”.
*2.Hy tế cao trọng của Chúa Ki-tô:
Máu mà vị thượng tế dâng tiến là máu súc vật, tế vật thụ động và vô ý thức. Chúa Ki-tô dâng tiến chính máu mình, trong một hiến lễ tự nguyện; vì thế Ngài chỉ dâng hiến mạng sống mình chỉ một lần: hy tế của Ngài có một giá trị vĩnh viễn. Những hy tế được vị thượng tế tiến dâng nhằm xóa những tội lỗi trong năm qua. Còn Chúa Ki-tô, Ngài “đã tự hiến một lần, để xóa bỏ tội lỗi muôn người” (9: 28).
*3.Chúa Ki-tô khai lối mở đường cho mọi người tiến gần Thiên Chúa:
Chắc chắn những Ki-tô hữu gốc Do thái đã luyến nhớ nhiều nỗi hoài niệm về những giây phút long trọng vào lúc mọi người chờ đợi trước tiền sảnh, lối ra của vị thượng tế với ơn tha thứ tội lỗi. Làm thế nào họ không thể không so sánh được chứ! Trong phụng vụ Mô-sê, một nhân vật duy nhất là vị thượng tế mới có đủ tư cách tiến gần Thiên Chúa. Trái lại, trong phụng vụ Ki-tô giáo, nhờ Chúa Ki-tô, Đấng Trung Gian tối cao và thập toàn, mọi người mạnh dạn tiến gần Thiên Chúa qua cuộc sống bí tích. Mỗi người tín hữu “hãy tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã được tắm rửa bằng nước tinh tuyền”, nghĩa là nhờ bí tích Thánh Tẩy, bí tích Hòa Giải và bí tích Thánh Thể… Chúa Ki-tô đã khai lối mở đường cho chúng ta tiến bước vào cung thánh trên trời.
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái đã hiểu rất rõ ý nghĩa thần học của biến cố Thăng Thiên, nhưng ông diễn tả biến cố này bằng những ngôn từ cổ kính. Những lời khuyên sau cùng trở nên khẩn thiết; nhiều đoạn văn của thư này hé lộ những người nhận thư bị những mối nghi nan ngờ vực xâu xé. Họ phải kiên vững trong niềm xác tín và nhất là trong niềm hy vọng bất khả chuyển lay.
TIN MỪNG (Lc 24: 46-53)
Thánh Lu-ca đã để lại cho chúng ta hai bài trình thuật về cuộc Thăng Thiên: một trong sách Tin Mừng Lu-ca và một khác trong sách Công Vụ. Trong chu trình Phụng Vụ năm C này, chúng ta gặp hai bài trình thuật: bài trình thuật của sách Công Vụ (Bài Đọc I) có nhiều tình tiết hơn; còn bài trình thuật của Tin Mừng thì đạm bạc hơn. Tuy nhiên, sự dị biệt đáng chú ý nhất liên quan đến giây phút biến cố xảy ra. Trong sách Tin Mừng, thánh Lu-ca định vị biến cố vào chính buổi chiều Phục Sinh; trong sách Công Vụ, bốn mươi ngày sau đó. Đây là cách thức mà thánh Lu-ca đã nỗ lực thuật lại hai cuộc Thăng Thiên: biến cố Chúa Giê-su trở về bên cạnh Cha Ngài ngay liền sau khi Ngài sống lại và biến cố Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ sau khi Ngài đã liên tục hiện ra cho các ông.
*1.Ôn cố tri tân:
Chúa Giê-su nhắc cho họ nhớ lại rằng Đức Ki-tô phải chịu đau khổ và sống lại từ cõi chết (x. Cv 2: 1-4). Bài học “ôn cố tri tân” (nhắc lại Cựu Ước để hiểu Tân Ước) được Đấng Phục Sinh ban cho các môn đệ hai lần trong cùng một ngày (trước hết, hai môn đệ trên đường Em-mau; sau đó, các môn đệ quy tụ ở Giê-ru-sa-lem) chắc chắn không thể thiếu được. Dường như thánh Lu-ca đã muốn cô động giáo huấn mà Chúa Giê-su ban trong suốt bốn mươi ngày được sách Công Vụ thuật lại. Đây là bản tóm lược bài giáo lý tiên khởi, giải thích sứ vụ của Đức Giê-su Ki-tô và chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.
*2.Lời hứa ban Thánh Thần:
Biến cố Thăng Thiên là điều kiện tất yếu của biến cố Ngũ Tuần, vì Thăng Thiên đồng nghĩa với việc Chúa Giê-su được tôn vinh. Chính khi Đức Ki-tô “được tôn vinh”, Người sẽ sai phái Thánh Thần hay Chúa Cha sai phái Thánh Thần nhân danh Người (Ga 14: 26). Tin Mừng Gioan nhấn mạnh nhiều lần: “Bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39) hay “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vây, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16: 7). Mặt khác, việc Đức Giê-su không còn hiện diện hữu hình nữa là một giai đoạn cần thiết để chuẩn bị cho các môn đệ một cách thế hiện diện khác của Người, sự hiện diện vô hình và nội tại trong Thánh Thần.
*3.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ thi hành sứ vụ:
Trong cuộc gặp gỡ sau cùng, Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ là chứng nhân của Ngài. Biến cố Thăng Thiên không là điểm kết thúc của một cuộc mạo hiểm thần linh, nhưng là điểm bắt đầu của một công trình bao la mà giờ đây được trao gởi cho các môn đệ thực hiện bằng cách công bố cho muôn dân nước lòng sám hối và ơn tha thứ tội lỗi. Như trong sách Công Vụ (1: 8), sứ vụ này phải được thực hiện “Bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem” (24: 47). Chính từ Giê-ru-sa-lem mà ánh sáng Phục Sinh bừng lên; chính tại Giê-ru-sa-lem mà các môn đệ chờ đợi Chúa Thánh Thần; chính tại Giê-ru-sa-lem mà các môn đệ ở lại, “lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24: 52-53).
*4.Cuộc từ biệt mang chiều kích phụng vụ:
“Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông”: Thánh Lu-ca đề cập đến chính biến cố Thăng Thiên; thánh ký ban cho biến cố này một cung điệu phụng vụ: Đức Giê-su dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, nơi đối diện với Thành Thánh và Đền Thờ, Người giơ tay chúc lành cho các ông, rồi Người từ biệt các ông và được rước lên trời, trong khi các ông sụp lạy Người. Sách Công Vụ thuật lại một phụng vụ từ biệt tương tự khác. Khi thánh Phao-lô từ giã các kỳ mục Hội Thánh Ê-phê-xô với niềm xác tín rằng thánh nhân sẽ không còn gặp lại các ông nữa, thánh nhân quy tụ họ trên bờ biển, căn dặn họ những lời sau cùng, phó thác họ cho Thiên Chúa, rồi thánh Phao-lô cùng tất cả anh em quỳ gối xuống cầu nguyện (Cv 20: 17-36).
*5.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ chan chứa hy vọng:
Thánh Lu-ca tường thuật cuộc Thăng Thiên của Chúa Giê-su với nhiều tình tiết sống động trong sách Công Vụ Tông Đồ; vì thế, trong sách Tin Mừng của mình, thánh ký đưa ra một bài trình thuật tóm lược về mầu nhiệm này, mầu nhiệm đánh dấu việc kết thúc sự hiện diện hữu hình của Chúa Giê-su trên trần thế. Biến cố Thăng Thiên mở ra một niềm hy vọng mới: Đức Giê-su được rước lên trời cùng với thân thể của Người. Người không rũ bỏ nhân tính để trở về bên cạnh Chúa Cha. Nhân tính, cùng với Đức Giê-su, được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: “Đầu ở đâu, thì các chi thể cũng sẽ ở đó”. Việc Chúa Giê-su lên trời cùng với thân thể của Người loan báo cuộc lên trời của chúng ta; và vinh quang của Người loan báo cuộc tôn vinh thân thể của chính chúng ta. Thăng Thiên và Phục Sinh là hai khía cạnh của cùng một mầu nhiệm; phụng vụ Giáo Hội tiên khởi cử hành hai biến cố này cùng nhau.
*6.Cuộc Thăng Thiên khai mở thời kỳ đầy tràn niềm tin:
“Họ trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỷ”. Thật mâu thuẫn biết bao, thay vì đắm mình trong nỗi phiền muộn, các Tông Đồ tràn đầy niềm vui sau khi đã chứng kiến cuộc biến mất của Chúa Giê-su. Đây là niềm vui thời thiên sai, niềm vui cứu độ mà thánh Lu-ca đã thắp sáng hơn các thánh ký khác; niềm vui về lời hứa ban Thánh Thần, nhưng nhất là niềm vui sâu xa của một niềm tin có nền tảng chắc chắn.
*7.Trong Đền Thờ:
“Họ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Sách Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với việc tư tế Da-ca-ri-a thi hành sứ vụ trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và hoàn tất với việc các Tông Đồ chúc tụng Thiên Chúa cũng ở trong Đền Thờ này. Đối với tư tế Da-ca-ri-a, sứ thần loan báo cho ông cuộc sinh hạ con trai của ông, đó sẽ là Gioan Tẩy Giả trong tương lai; còn đối với các môn đệ Ngài, Chúa Giê-su hứa với các ông Chúa Thánh Thần hiện xuống. Sách Tin Mừng Lu-ca mở ra và đóng lại với dưới dấu chỉ của lời hứa và dấu chỉ của lời cầu nguyện.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NĂM C
CHUYỂN SANG MỘT GIAI ĐOẠN MỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.
*II. Gợi ý sám hối
Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Chúa Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.
Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.
Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.
*III. Lời Chúa
*1. Bài đọc I: Cv 1,1-11
Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi thăng thiên:
Chúa Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn đang sống.
Ngài căn dặn họ chờ điều Thiên Chúa hứa ban, tức là ban Chúa Thánh Thần.
Trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp thế giới.
*2. Đáp ca: Tv 46
Tv này ca tụng vương quyền của Giavê Thiên Chúa. Phụng vụ hôm nay áp dụng Tv này cho Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm vua và trao cho mọi quyền hành trên trời dưới đất.
*3. Bài đọc II: Êp 1,17-23
Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.
*4. Bài Tin Mừng: Lc 24,46-53
Bài Tin Mừng này có hai phần:
*a. Những lời căn dặn cuối cùng của Chúa Giêsu (cc 46-49):
Sự cần thiết của Thập giá: đã có chép từ lâu trong Sách Thánh rằng Đấng cứu thế phải qua chịu nạn rồi mới tới phục sinh.
Môn đệ Chúa phải rao giảng và làm chứng về việc Ngài chết và sống lại.
Chúa Giêsu sẽ ban Thánh Linh cho môn đệ.
*b. Chúa Giêsu lên trời (cc 50-53): Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Ngài siêu thăng không có nghĩa là Ngài rời bỏ một nơi (trái đất) để đến một nơi khác (trời), mà là
Ngài thay đổi tình trạng: không còn ở tình trạng loài người hèn hạ nữa, mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa.
Ngài cũng thay đổi cách hiện diện: từ nay Ngài không thường xuyên hiện diện giữa chúng ta bằng thân xác hữu hình của Ngài nữa, nhưng vẫn hiện diện một cách vô hình dù chúng ta không thấy.
*IV. Gợi ý giảng
*1. Thời kỳ sứ mạng của Giáo Hội
Thánh Lễ hôm nay có 2 bài đọc của cùng một tác giả là Thánh Luca: Bài đọc 3 trích phần cuối của quyển Tin Mừng Luca, và bài đọc 2 trích phần đầu của sách Công vụ. Mà chúng ta biết thánh Luca viết một tác phẩm gồm 2 tập: tập I là sách Tin Mừng viết về sứ mạng của Chúa Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, tập II là sách Công vụ viết về sứ mạng của Giáo Hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Vậy nếu đặt 2 bài đọc của Thánh lễ này vào toàn bộ tác phẩm của thánh Luca thì chúng ta sẽ hiểu rằng tác giả muốn nói: việc Chúa Giêsu thăng thiên là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó, hay nói cách khác, lúc Chúa Giêsu thăng thiên là lúc Chúa Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo Hội. Bây giờ chúng ta hãy dựa vào một số chi tiết trong hai bài đọc ấy để tìm hiểu sứ mạng của Giáo Hội và cũng là của chúng ta.
Trước hết, sứ mạng ấy là gì? Thưa là sứ mạng “làm chứng”, như lời Chúa Giêsu nói “Chúng con sẽ là chứng nhân của Thầy”. Chứng nhân, hay người làm chứng, là kẻ nghe gì nói y lại như vậy, thấy sao thuật y lại như vậy, rất đúng, rất trung thực.
Chúng ta làm chứng cho ai? Thưa cho Chúa Giêsu. Mà theo cách mô tả của thánh Luca, Chúa Giêsu nay đã lên trời, có một đám mây che khuất Ngài. Không biết có thực ngày xưa đã có một đám mây từ trời đáp xuống như một chiếc dĩa bay, rồi hai thiên thần mời Chúa Giêsu bước lên đứng trên chiếc dĩa bay đó, rồi sau đó chiếc dĩa bay bằng mây từ từ cất lên cao hay không. Điều này không chắc, vì 3 thánh sử kia, tức Matthêu, Máccô và Gioan đều không hề nói về đám mây đó. Thực ra, qua hình ảnh đám mây che khuất, thánh Luca muốn nói rằng Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mắt người phàm không còn trông thấy được Ngài nữa. Nhưng những kẻ làm chứng cho Ngài phải làm chứng thế nào để người ta như là thấy được Ngài thực sự.
Chúng ta làm chứng thế nào? Sách Công vụ có ghi một chi tiết: Đang lúc các tông đồ cứ dõi mắt đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy thì hai thiên thần nói với họ: “Hỡi người Galilê, sao còn mãi đứng nhìn trời”. Câu nói bỏ lửng nhưng có nhiều ngụ ý. Chúng ta có thể đoán ra được những ngụ ý sau:
Đừng luyến tiếc nữa cái thời các ông có Chúa Giêsu ở bên cạnh một cách hữu hình và mọi sự đều do Chúa Giêsu làm hết. Bây giờ đã tới phiên các ông hoạt động, hãy tự mình hoạt động, dĩ nhiên là cũng có sự trợ giúp của Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện cách vô hình bên cạnh các ông, nhưng chính các ông phải hoạt động.
Ngụ ý thứ hai là đừng chỉ mãi mê mơ tới ngày được lên hưởng thiên đường với Chúa Giêsu, điều quan trọng trước mắt là phải quay về với thế giới hiện tại. Hạnh phúc thiên đường phải được xây dựng ngay từ trần thế này.
Và chúng ta sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu ở đâu? Chúa Giêsu đã nói rõ: “Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới”. Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài, đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất. Khi vẽ một bản đồ hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Ngài ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông đồ đã thực hiện đúng như thế: nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.
Các chi tiết trong hai bài đọc Tin Mừng và sách Công vụ giúp chúng ta thấy được sứ điệp Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay:
Chúng ta đã quen dự Thánh Lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm một số việc đạo đức khác. Tuy nhiên chúng ta đừng chỉ mãi mê lo xây dựng hạnh phúc thiên đường cho riêng mình, mà hãy biết lo xây dựng hạnh phúc thiên đường cho người khác nữa.
Nói là xây dựng hạnh phúc thiên đường, nhưng không phải bằng cách chỉ lo đến những việc đời sau, hạnh phúc thiên đường phải được xây dựng ngay tại cuộc sống trần thế này.
Và ở trần thế này, nơi chúng ta phải ưu tiên xây dựng hạnh phúc là chính trong nội bộ của mình. Cộng đoàn chúng ta có hạnh phúc thì mới là một hình ảnh đẹp khuyến khích người ngoài đến chia xẻ niềm tin, chia xẻ cuộc sống và chia xẻ hạnh phúc của chúng ta.
Đó chính là cách chúng ta làm chứng cho Chúa, làm cho người ta tuy bị một áng mây chia cách giữa hữu hình với vô hình nhưng cảm thấy như thực sự nhìn thấy Chúa. Thấy Chúa ở trong chúng ta, ở trong cộng đoàn chúng ta và Giáo Hội chúng ta.
*2. Hiện diện và vắng mặt
Kể từ khi Chúa Giêsu Thăng thiên, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình giữa các môn đệ nữa. Nhưng sự vắng mặt thể lý không có nghĩa là không còn hiện diện nữa.
Thực ra nhiều khi sự hiện diện thế lý chẳng là gì cả. Hai người sống chung một nhà, ăn chung một bàn, và thậm chí ngủ chung một giường nhưng vẫn cảm thấy xa nhau vạn dậm, bởi vì lòng và trí họ quá xa nhau. Như người ta nói “đồng sàng, dị mộng” (chung giường nhưng giấc mộng khác nhau).
Trái lại dù thể xác xa cách nhau vạn dậm nhưng người ta vẫn có thể cảm thấy rất gần nhau, miễn là người ta thương nhau và hiểu nhau. Có khi nhờ xa nhau một thời gian mà người ta lại thương nhau hơn và hiểu nhau hơn.
Hơn nữa, trong thời gian ta hiện diện bên cạnh một người thân, nếu đó là một sự hiện diện trọn vẹn thì khi xa nhau, chính sự vắng mặt ấy lại sinh nhiều hoa trái, bởi vì những kỷ niệm lúc gần nhau và tình nghĩa thắm thiết lúc sống bên nhau sẽ còn tiếp tục nuôi dưỡng người thân ấy. Như thế, đối với những người thân nhau thì cả sự hiện diện lẫn sự vắng mặt đều là những món quà.
Từ khi thăng thiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn bị hạn chế về không gian và thời gian nữa, nhưng nhờ đó mà Ngài có thể hiện diện ở khắp nơi và trong mọi lúc.
Các kitô hữu đầu tiên đã hiểu rất rõ điều này. Họ biết Chúa Giêsu vẫn ở bên họ, tuy không cùng một cách như trước nữa. Họ tin rằng Ngài đang chia xẻ cuộc sống của họ; họ còn tin rằng cái chết sẽ giúp họ được hợp nhất mãi mãi với Ngài trong vinh quang.
Có lẽ nhiều người cho rằng các tông đồ ngày xưa hạnh phúc hơn mình bây giờ, bởi vì các vị ấy đã được nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng các sách Tin Mừng viết rằng dù mắt họ nhìn thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn chưa hiểu Ngài là ai. Họ chỉ hiểu được Ngài khi đọc sách Thánh và khi dự lễ bẻ bánh.
Đọc sách Thánh và dự lễ Bẻ bánh, đó là những phương tiện giúp nhận ra Chúa Giêsu. Mà những phương tiện này chúng ta ngày nay cũng có. Cho nên, xét về vấn đề nhận ra Chúa Giêsu bằng đức tin thì chúng ta ngày nay cũng chẳng thua thiệt gì hơn so với các tông đồ ngày xưa.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã trông cậy vào các tông đồ để Tin Mừng được rao giảng khắp nơi và được mọi người sống theo Tin Mừng ấy. Ngày nay Chúa Giêsu cũng trông cậy nơi chúng ta như thế. Chúng ta phải làm chứng về Ngài cho mọi người trong thế giới hôm nay. (FM)
*3. Loan Tin Mừng và học Tin Mừng
Thông thường, những lời cuối cùng của một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là những điều hết sức quan trọng mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực hiện. Và những người ở lại thường coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn trối như một điều linh thiêng cần thực hiện cho bằng được.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặc các tông đồ: “Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem…” Như vậy, sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Kitô muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu là: hãy tiếp tục sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trước mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.
Thế nhưng thế nào là loan Tin Mừng?
Nhiều người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu, là làm dấu thánh giá nơi quán ăn, là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo trong các tờ lý lịch bất chấp những bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí tích, với mục đích làm gương sáng cho người chung quanh, đồng thời khuyên mọi người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những người ngoại đạo mình quen biết, liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng cách nói cho họ biết vào đạo thì được Chúa ban ơn này ơn kia, v.v…
Kết quả của những việc đó có thể là chúng ta lôi kéo được một số người vào đạo, hoặc làm cho nhiều người khô khan năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh phúc hơn, v.v
Tất cả những điều đó là những điều nên làm, cần làm, nhưng chưa phải là loan báo Tin Mừng đúng nghĩa. Muốn loan báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan báo phải biết Tin Mừng là gì, phải cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như thế, thì mình chỉ làm công việc «mù mà lại dắt mù», và kết quả là «cả hai sẽ lăn cù xuống hố» (Mt 15,14; Lc 6,39)
Thật vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống mình, chưa thật sự thay đổi đời sống mình, mà mình lại đi rao giảng Tin Mừng, muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống người khác, thì có khác gì «cho đi cái mình chẳng có»? Như thế thì người nhận sẽ nhận được gì?
Vì thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, nhất là suy gẫm Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục.
*4. Cuộc sống chứng nhân
Báo “Le Figaro” mới đăng trả lời phỏng vấn của Tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi – Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng Ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời – Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
*
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các Tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24,47). Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.
Tổng thống Nga Putin quả tà một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo và sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đă chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã qua 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người!”
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.
*
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (TP, năm C)
*5. Sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội
Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Ngài có thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi về cùng Cha của Ngài (Cv 1, 3).Lần cuối cùng trước khi rời các ông, Chúa Giêsu đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp nơi giảng Tin Mừng cứu độ (Cv 1, 8).
Rồi hôm nay, Chúa phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội (Mt 28, 16-20). Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông (Cv 1, 9-12).
*1. Tại sao các ngươi cứ đứng đó mà nhìn lên trời:
Sự kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các Ngài không khỏi bàng hoàng dù rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Ngài về với Chúa Cha, Ngài ra đi thì ích lợi hơn cho các ông.:”…Thầy ra đi thì Đấng bầu chữa mới đến với các con” (Ga 16, 6-7).Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng (Ga 14, 26; 15, 26-27).
Nhưng trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức cẩn thận: “Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần “.
Việc Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông (Cv 1, 3).
Thời gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Ngài đang sống cách hữu hình, đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc, cùng ăn, cùng sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1,6).
Cái thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh Chúa cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 16-20). Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các Môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế
*2. Chúa về trời là một mối phúc lớn lao:
Thật ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội:” Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân…Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 17-20).
Lệnh truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các Ngài có đủ mọi uy quyền thiêng liêng phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.
Dầu con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách hữu hình, nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng tận. Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời. Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô Phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Chúa đang trao, Chúa đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa:” Các con là muối ướp cho mọi người…Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố xây trên ngọn đồi không thể giấu được… ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở trên trời ” (Mt 5,13-16)
Lạy Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Và cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế. (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT, Vietcatholic)
*6. Sứ mệnh của người Kitô hữu
Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:
“Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con.”
Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế. Chính tên Ngài cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en = Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Lạy Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi. (Sr Margareta Maria Hiền, Vietcatholic)
*V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã phải trải qua con đường thập giá rồi mới bước vào vinh quang phục sinh. Với ước mong sống trọn vẹn vai trò chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
- Chúa Giêsu hứa ban Thánh thần cho các tông đồ / để các ngài làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / giúp chúng ta trở nên những chứng nhân can trường cho Thiên Chúa là tình yêu.
- Rao giảng Chúa Giêsu Kitô cho hết thảy mọi nước mọi dân / đặc biệt cho các dân tộc tại lục địa châu Á mênh mông / là một việc khẩn cấp trong thiên niên kỷ thứ ba này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân cho công cuộc rao giảng Tin mừng cứu độ.
- Đức tin Kitô giáo hội nhập vào văn hóa Châu Á / là một việc làm hết sức quan trọng trong việc giới thiệu Đức Kitô cho một châu Á đa chủng tộc / đa tôn giáo và đa văn hóa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà truyền giáo / luôn quan tâm đặc biệt đến công việc hệ trọng này.
- Học hỏi Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là bổn phận quan trọng của người Kitô hữu Á Châu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tận dụng mọi cơ hội thuận tiện để học hỏi sâu rộng Tông huấn này / nhờ đó có thể tham gia tích cực vào công cuộc rao giảng Tin mừng.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trước khi được rước lên trời, Chúa đã dạy chúng con phải rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể thực hiện đến nơi đến chốn lệnh truyền quan trọng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
*VI. Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
*VII. Giải tán
Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa: “Anh em hãy đi đến với muôn dân
”, “Anh em hãy làm chứng cho Thầy”. Chúc anh chị em bình an.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NĂM C
CÁC CON LÀ CHỨNG NHÂN- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời kết thúc cuộc đời ở trần gian theo như những gì Kinh Thánh đã tiên báo. Theo cái nhìn của Luca, thì “Thời kỳ Israel” đã nhường chỗ cho “Thời kỳ Đức Kitô”. Giờ đây, “Thời kỳ của Đức Kitô” đã lại nhường chỗ cho “Thời kỳ của Giáo hội”.
Bài đọc Tin mừng trích trong tác phẩm cuối của Tin mừng Luca, chứa đựng trình thuật đầu tiên của Luca về biến cố lên trời. Ở đây Thăng thiên được trình bầy như được xẩy ra vào Chúa nhật Phục sinh. Đức Chúa Phục sinh cho các Tông đồ thấy Kinh thánh đã tiên báo về Đức Kitô phải chịu đau khổ và sống lại như thế nào (Lc 24,48).
Khi hiện ra với các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao cho các ông sứ vụ rao giảng Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất (Lc 24,47) và phải làm chứng cho Ngài nơi muôn dân nước (Lc 24,48). Đồng thời Ngài cũng hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần đến cùng họ (Lc 24,49). Sau khi đã căn dặn các môn đệ nhiều điều, Đức Giêsu lên trời trước mặt các ông. Họ vui mừng trở về Giêrusalem để chờ đợi Chúa Thánh Thần.
Lễ Thăng thiên được xem như đỉnh điểm của đời sống Đức Giêsu và là khởi điểm sứ vụ của Giáo hội. Do đó, mọi thành viên trong Giáo hội phải tích cực thi hành sứ vụ này bằng đời sống chứng nhân trước mặt mọi người.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1 : Cv 1,1-11
Khởi đầu sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết : sau khi sống lại Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ trong 40 ngày và trước khi về trời, Ngài còn ban các ông những lời dạy cuối cùng
– Đức Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn còn sống.
– Ngài khuyên các ông hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban.
– Ngài còn trao cho các ông sứ mạng rao giảng Tin mừng để làm chứng cho Ngài trên khắp cùng thế giới.
+ Bài đọc 2 : Ep 1,17-23
Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.
Ngài còn cho biết : Chính Chúa Cha đã cho Đức Giêsu sống lại; chính Chúa Cha đã tôn vinh Đức Giêsu; cũng vẫn Chúa Cha đã đặt Đức Giêsu làm Chúa tể muôn loài, làm đầu Hội thánh. Chúng ta có thể đặt trọn niềm tin cậy ở Ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 24,46-53
Trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Phaolô đã nói và trong Tin mừng hôm nay còn nói lại :
– Những lời căn dặn cuối cùng : theo Sách Thánh, Đức Kitô phải qua chịu nạn rồi mới tới Phục sinh. Các môn đệ phải rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban cho.
– Đức Giêsu về trời : Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Đức Giêsu thăng thiên. Ngài về trời có nghĩa là Ngài rời bỏ tình trạng hèn hạ của loài người mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa, nghĩa là Ngài chỉ thay đổi cách hiện diện.
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Chứng nhân của Đức Kitô
*I. ĐỨC GIÊSU VỀ CÕI TRỜI.
*1.Theo sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ.
Thánh Luca là tác giả sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ. Theo sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc thấy biến cố lên trời xẩy ra vào ngày thứ 40 sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh. Thực ra, sách Tin mừng có ý viết về sứ mạng của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, và sách Công vụ Tông đồ viết về sứ mạng của Giáo hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Việc Đức Giêsu lên trời là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó; hay nói cách khác, lúc Đức Giêsu lên trời là lúc Đức Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo hội để tiếp tục công trình của Ngài.
*2.Ý nghĩa việc lên trời.
Việc lên trời của Đức Giêsu có hai ý nghĩa, đó là giai đoạn rao giảng của Đức Giêsu đã qua, đã chấm dứt và mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội.
*a) Một giai đoạn đã qua.
Ý nghĩa trọng đại của việc Đức Giêsu lên trời là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho đến đời đời.
Đức Giêsu đã làm xong công việc cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại để cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy, đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay, các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng Thầy đời đời vượt thời gian và không gian.
*b) Khởi đầu một kỷ nguyên mới.
Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Sách Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Giêsu, mà còn tiếp tục trong Hội thánh. Sứ điệp Tin mừng được hoạch định”cho muôn dân”, được rao giảng bắt đầu từ Giêrusalem.
Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Mới kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất.
Thật là nghịch lý ! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn phiền. Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải tấm lòng sầu muộn vì họ biết rằng từ nay không có gì có thể ngăn cách mình với người Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu :”Ai có thể phân cách chúng ta với tình yêu thương của Chúa Cứu thế” ? Và Ngài khẳng định :”Tôi biết chắc chắn rằng bất kỳ sự sống, sự chết… chẳng có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi sự yêu thương mà Thiên Chúa đã thể hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta”(Rm 8,35-38).
- TRAO SỨ MẠNG RAO GIẢNG TIN MỪNG.
*1.Sứ vụ rao giảng Tin mừng.
Đức Giêsu về trời vẫn giao sứ mạng cho các môn đệ và Giáo hội phải rao giang Tin mừng :”Có lời Kinh Thánh chép rằng : Đức Messia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem”(Lc 24,46-47).
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới dất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Ngài. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.
Truyện : Hoàn thành tác phẩm
Nhạc sư sáng tác người Ý, Giacomo Puccini, để lại cho đời một số những tác phẩm ca nhạc kịch – opera – rất nổi tiếng, chẳng hạn như La Bohême và Madame Butterly. Năm 1922, lúc 64 tuổi, ông bị ung thư ác tính. Mặc dù cơn bệnh hành hạ thân thể, Puccini vẫn nhất định phải hoàn tất vở ca kịch Turandot mà bây giờ nhiều người đánh giá là vở ca kịch hay nhất của ông.
Ông làm việc ngày đêm. Nhiều người khuyên can ông phải nghỉ ngơi vì nghĩ rằng ông không thể nào hoàn tất vở ca kịch này được. Khi con bệnh trở nên trầm trọng, Puccini đã viết cho học trò của mình :”Nếu thầy không hoàn tất vở ca kịch Turandot được, thầy muốn các con tiếp tục công việc ấy cho thầy”.
Năm 1924, ngày số phận đã tới, khi Puccini sang Bỉ giải phẫu, ông qua đời hai ngày sau đó. Trở về Ý, các học trò của ông qui tụ nhau lại, mỗi người một tài năng khác nhau tiếp tục sáng tác vở ca kịch Turandot của thầy để lại. Sau khi nghiên cứu và làm việc với tất cả tâm hồn, họ đã hoàn tất vở ca kịch này.
Năm 1926, lần đầu tiên trên thế giới, vở ca kịch đã được trình diễn tại nhà hát ca kịch La Scala ở Milan. Vở này đã được điều khiển bởi người nhạc trưởng môn sinh rất được Puccini ưa thích, Arturo Toscanini. Tất cả mọi sự diễn tiến tốt đẹp cho đến khi dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc mà Puccini đã sáng tác dang dở. Những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt của người điều khiển. Ôâng ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuốâng, quay ra khán giả và nói lớn :”Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà hát im lặng một hồi lâu. Không ai nhúc nhích ! Không một tiếng động ! Hoàn toàn thinh lặng !
Sau vài phút, người nhạc trưởng cầm cây đũa điều khiển lên, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ rơi và nói lớn :”Nhưng các môn sinh của ông đã hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch Turandot kết thúc, cả nhà hát bùng lên tràng pháo tay như sấm nổ vang trời. Trong rạp hát không còn một con mắt nào khô ráo. Ai cũng rơi lệ và không ai có thể quên được giây phút ấy (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 190).
Rao giảng Tin mừng là sứ vụ Đức Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi xa cách con cái, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các Tông đồ :”Vậy các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mạng đó. Mặc dầu Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách, nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin mừng. Lòng can đảm, chí trung kiên đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mọi người như lời Ngài đã phán :”Thầy ở cùng các con mọi ngày đến tận thế”.
*2. Rao giảng bằng cuộc sống.
Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, có người phải từ bỏ gia đình đi đến những miền xa, phải trèo non lặn suối, có khi phải liều mạng để rao giảng Tin mừng. Đây là những người có ơn kêu gọi đặc biệt, còn phần đông chúng ta chỉ có thể rao giảng trong môi trường cụ thể của mình, đó là rao giảng bằng đời sống. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi ngưởi, Để rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài cho chính chúng ta trước. Có câu ngạn ngữ Trung hoa như sau :
“Tiên chánh kỳ tâm hậu tu kỳ thân,
Tiên tu kỳ thân hậu tề kỳ gia,
Tiên tề kỳ gia hậu trị kỳ quốc
Tiên trị kỳ quốc hậu bình thiên hạ”.
Tâm hồn có chân chính thì bản thân mới tốt đẹp,
Bản thân có tốt đẹp thì gia đình mới thuận hòa,
Gia đình có thuận hòa thì quốc gia mới thịnh trị,
Quốc gia có thịnh trị thì thế giới mới hòa bình.
Cũng thế, muốn rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải đưa Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp cùng thế giới. Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Đức Giêsu vào cuộc đời mình thì gợn sóng ấy sẽ biến thành cơn sóng thủy triều, rồi cơn thủy triều sẽ thay đổi bộ mặt trái đất thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.
III. SỨ MẠNG LÀM CHỨNG CHO CHÚA.
Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Các con làm chứng về những điều ấy”(Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy.
Vậy làm chứng là gì ? Làm chứng là nhận thức một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua.
Còn chứng nhân hay người làm chứng, là kẻ nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại như vậy, rất đúng, rất trung thực. Ngược lại thì người ta gọi là phản chứng. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.
Triết học dạy rằng : “Nhất chứng phi chứng, nhị chứng chứng quả”.
Tất cả những điều kể trên đã có quá hai người làm chứng, cách riêng là mười một môn đệ, cách chung là toàn dân đồng thời với Chúa, sau đó là chúng ta qua các môn đệ Ngài.
Hiểu như vậy, các Tông đồ là những chứng nhân đầu tiên về cuộc đời của Đức Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa.
Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Đức Giêsu đếu bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh: phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có Phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.
Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói :”Mỗi ngưởi giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, nhất là phép Thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Ngài. Và tất cả chúng ta đã biết : cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Truyện : Những gì tôi biết về Chúa Kitô.
Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần :
– Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao ?
– Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.
– Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào ?
– Rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.
– Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi ?
– Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.
– Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta ?
– Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự đi theo ông Kitô.
– Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết qúa ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này : ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài… (Theo Parole de vie).
Trong tông huấn Evangelii nuntiandi, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau :”Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo hội sẽ phúc âm hóa thế giới; nói cách khác, bằng sự “chứng tá” sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu – chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, về sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian – nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện” (Evangelii nuntiandi, đoạn 41),
- HÃY THEO CHÚA VỀ TRỜI.
- Quê hương chúng ta ở trên trời.
Trước khi ra đi vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu dã khích le äcác Tông đồ :”Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14, 1-3).
Tin tưởng như thế, thánh Phaolô cũng nói rằng :”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trờ đến cứu chúng ta”(Pl 320).
Nếu chúng ta biết Đức Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các bậc thánh đã yêu mến một quê hương tốt hơn – quê hương ở trần gian – mà các ngài gọi là quê hương trên trời.
Nhưng nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng : chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vang thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy.
- Điều kiện để về trời.
Đức Giêsu phán :”Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27).
Nước Trời hay thiên đàng là phần thưởng cho những ai đã cố gắng thi hành theo thánh ý Chúa. Như thế, Chúa không cho phép chúng ta tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngắm cõi đời mà thôi !
Thánh Phaolô đã vạch ra một loạt các nguyên tắc để giúp người Kitô hữu tiếp tục công việc ở đời này và duy trì một mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn nhận mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Nghĩa là người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình quan tâm, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi sống đời đời.
Vậy những ai xác tín rằng quê hương đích thực của đời mình là ở trên trời cao thì trước hết và trên hết hãy qui hướng tất cả mọi sự trong cuộc sống, vận dụng mọi hoàn cảnh về nơi đó để cố gắng chiếm đoạt cho bằng được dù phải trả bất cứ giá nào. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là phải chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ này, trái lại phải vui tươi, can đảm chu toàn mọi trách nhiệm, bổn phận mà Chúa đã giao phó cho mỗi ngưởi với điều kiện đừng để cho bản thân, gia đình, của cải, danh lợi làm chủ, điều khiển đến độ quên hết đời sau.
Chúng ta hãy bắt chước các Tông đồ khi chia ly với Thầy mình thay vì buồn sầu, chán nản, các ngài hớn hở vào đời làm nhiệm vụ được giao phó vì các ngài thâm tín rằng phải sống ở trần gian một ít lâu, nhưng hy vọng chắc chắn đợi ngày tái ngộ với Thầy mình trên quê trời.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NĂM C
NIỀM HI VỌNG NƯỚC TRỜI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.
Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.
Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.
Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.
Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.
Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
- Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
- Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NĂM C
NHỮNG CHỨNG NHÂN MỚI (*)- Lm. Trần Thanh Sơn
Khởi từ cuộc Phục Sinh của mình, Đức Giêsu đã đổi mới mọi sự. Ngài đã vượt qua sự chết để khai mở sự sống. Từ đây, lịch sử nhân loại bước sang một giai đoạn mới. Các thế lực sự dữ như: đau khổ, gian nan, vất vả, và nhất là cái chết vẫn còn đó, nhưng không còn được sức mạnh. Tất cả đã bị Đấng Phục Sinh khuất phục. Nhờ sự Phục Sinh của Đức Giêsu thế giới cũ đã qua đi và một thế giới mới đã bắt đầu xuất hiện (x.Kh 21, 1-5).
Ngay trong Chúa Nhật Phục Sinh, ngang qua hình ảnh ngôi mộ trống, phụng vụ lời Chúa cho thấy bởi sự sống lại của mình, Đức Giêsu đã tạo dựng nên một thế giới mới. Và rồi không chỉ lập nên một thế giới mới, Đấng Phục Sinh còn lập nên một dân mới khi Ngài thổi hơi ban Thánh Thần để biến đổi các tông đồ từ những kẻ nhát đảm ở trong những căn phòng đóng kín cửa, thành những con người can đảm dám mở bung cửa, ra đi loan báo Tin mừng cho muôn dân. Từ đây, bước đi giữa biển đời tăm tối, dân mới do Đấng Phục Sinh thiết lập không còn bơ vơ, nhưng họ có Lời Chúa làm kim chỉ nam, định hướng cho cả cuộc đời của họ. Họ chỉ cần để tâm lắng nghe và khiêm tốn thực hành lời dạy của Đấng Phục Sinh, chắc chắn họ sẽ thu được kết quả, như mẻ cá lạ mà các tông đồ đã kéo được trên bờ biển Tibêria năm xưa. Hơn thế nữa, dân mới là Giáo Hội do Đấng Phục Sinh thiết lập còn được chính Ngài làm Thủ Lãnh. Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Lành biết rõ từng người trong dân mới. Ngài hằng chăm sóc và ban cho họ được sống và sống dồi dào. Đồng thời, trong tư cách là vị Mục Tử nhân lành, Đấng Phục Sinh cũng mời gọi mỗi người chúng ta là thành phần trong dân mới hãy sống yêu thương nhau như Ngài đã hằng yêu thương chúng ta. Mặt khác, đối với Đấng Phục Sinh, việc chúng ta tuân giữ lời dạy yêu thương không những là một dấu chỉ để mọi người nhận ra chúng ta là môn đệ của Ngài, nhưng còn là một biểu hiệu cụ thể chứng tỏ lòng yêu mến của chúng ta đối với Ngài, như lời Ngài tuyên bố: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14, 23).
Và hôm nay, trước khi chấm dứt sự hiện diện hữu hình của mình giữa nhân loại, Đấng Phục Sinh đã mời gọi các tông đồ và cả từng người chúng ta lên đường ra đi loan báo cho muôn dân biết về Tin Mừng Phục Sinh mà chúng ta đã lãnh nhận. Chính vì thế, theo truyền thống của Giáo Hội, Chúa Nhật lễ Thăng Thiên hôm nay đã được chọn làm ngày “Thế giới truyền thông”.
GIÁ TRỊ CỦA ĐAU KHỔ:
Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy sứ điệp đầu tiên mà mỗi người chúng ta cần loan báo cho mọi người đó là cuộc khổ nạn của Đức Kitô, như lời Ngài phán với các môn đệ trước lúc về trời: “Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình”. Khi nhắn gởi với các tông đồ sứ điệp này, một lần nữa, Đức Giêsu khẳng định với chúng ta rằng: không thể có cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên vinh hiển hôm nay, nếu trước đó, Ngài đã không đi đến tận cùng con đường thập giá. Hay nói cách khác, Kitô giáo không hứa hẹn một con đường dễ dãi, hấp dẫn, nhưng để đạt đến một đời sống vĩnh cửu, mỗi người cần phải đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, con đường thập giá, con đường của đau khổ. Kitô giáo không tôn sùng đau khổ và cũng không chạy trốn đau khổ, nhưng mời gọi chúng ta sẵn sàng đối diện và đón nhận mọi biến cố vui buồn trong cuộc sống hàng ngày, và biến chúng trở thành phương thế dẫn đưa chúng ta đến với cuộc sống vĩnh cửu.
Nói đến việc đón nhận đau khổ, trái ý… vào giờ này, ở nơi đây, trong ngôi Thánh Đường này thì dễ, nhưng để đón nhận những đau khổ và thử thách ngay trong cuộc sống thực tế hàng ngày, thì quả thật không dễ chút nào. Đối mặt với đau khổ, khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là tìm cách trốn chạy đau khổ. Thế nhưng, có một thực tế mà nhiều khi chúng ta không muốn nhận, đó là tự sức mình, chúng ta không thể nào loại trừ hết mọi đau khổ. Đau khổ vẫn còn đó vì trong từng người chúng ta vẫn còn dục vọng, vẫn còn “Tham, Sân, Si”. Càng chạy trốn, càng vùng vẫy đau khổ như càng thắt chặt cuộc đời của chúng ta. Chính vì chỉ cậy vào sức mình như thế, nên cuối cùng có nhiều người đã đi vào con đường tuyệt vọng.
Biết rõ sự yếu đuối và giới hạn của con người chúng ta, nên trước khi về Trời, Đức Giêsu đã hứa với các tông đồ và với từng người chúng ta: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa”. Chính vì ý thức được sự mỏng dòn của mình, và trong tâm tình tin tưởng vào lời hứa của Đấng Phục Sinh, thánh Phaolô đã lên tiếng cầu xin cho chúng ta: “Xin Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, dể nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi”. Thánh nhân, xin Thiên Chúa ban Thần trí của Ngài cho chúng ta, để nhờ ánh sáng của Ngài soi dẫn, chúng ta biết vững lòng trông cậy vào ơn Chúa. Nhờ đó, chúng ta đủ can đảm đón nhận những gì Chúa gởi đến trong cuộc sống mỗi ngày.
TIN MỪNG PHỤC SINH:
Tuy nhiên, chúng ta đón nhận đau khổ không phải vì đau khổ, nhưng chúng ta đón nhận nó như một phương tiện để giúp chúng ta đến với cuộc sống vĩnh cửu. Đau khổ, chỉ là một bước thanh luyện cần thiết để giúp chúng ta đạt đến vinh quang Phục Sinh. Chính Đức Giêsu, mặc dù đã đi con đường thập giá, nhưng Ngài không dừng lại ở cái chết khổ nhục trên thập giá. Đàng sau cái chết, đó là cuộc Phục Sinh vinh hiển. Chính sự sống lại của Đức Giêsu đã làm cho con đường thập giá trở nên có giá trị. Sau này trong thư gởi tín hữu Corinhtô, thánh Phaolô đã tuyên bố: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15, 14). Ý thức điều đó, sau những lời nói về cuộc thương khó của Đức Giêsu, thánh sử Luca liền cho chúng ta biết về sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: “Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng; Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày”. Tin Mừng Phục Sinh phải là điều mà mỗi người chúng ta cần xác tín và là mục tiêu cuối cùng của cuộc sống mỗi người chúng ta.
Như thế, vững lòng đón nhận mọi biến cố vui buồn sướng khổ trong cuộc sống hiện tại, và luôn hướng lòng về đời sống vĩnh cửu là hai mặt gắn liền không thể tách rời của mỗi người kitô hữu. Đồng thời, đó cũng là sứ điệp mà mỗi người chúng ta cần loan truyền cho mọi người trong thế giới hôm nay. Chúng ta phải dùng chính đời sống của mình để loan báo cho mọi người về giá trị của con đường thập giá và niềm vui Phục Sinh, như lời dặn của Đấng Phục Sinh: “Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa, và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Hơn nữa, rao giảng bằng cuộc sống, cũng chính là cách thức truyền giáo thích hợp nhất trong thế giới hôm nay.
Chớ gì nhờ sức mạnh của Đấng Phục Sinh nâng đỡ, mỗi người chúng ta không tuyệt vọng khi gặp thử thách gian nan, nhưng luôn bình an trong mọi sự. Nhờ đó, chúng ta trở nên những chứng nhân mới cho Đấng Phục Sinh trong thời đại hôm nay. Amen.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NĂM C
CHÚA VỀ QUÊ– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mỗi người chúng ta đềucó những kỷ niệm vềsự bình yên của riêng mình. Với tôi, đó là một góc quán nhỏ thân quen vớinhómbạn, có thể là mộtbữa cơm thanh đạm trongmái nhà cùng những người thân thương, hoặc có khi, chỉ cần nhớvề những kỷ niệm đầy yêu thương với cha me, người thâncũng đủ khiến lòng ta bình yên rồi.
Đó là lý do mà ai trong đời cũng cần một chốn bình yên như thế để trở về sau những vất vả truân chuyên, hay sau những mất mát ê chê. Có đôi lúc chúng ta chỉ muốn buông bỏ mọi sự để mong sớm được về nơi chốn bình yên của lòng ta.
“Ai rồi cũng cần một nơi chốn bình yên
Để trút bỏ những muộn phiền lo lắng
Ngôi nhà nhỏ – nơi yêu thương đầy ắp
Chẳng lợi danh, được mất, hơn thua”
Nơi bình yên ấy chính là mái nhà đầy ắp yêu thương. Nơi ấy không chỉ cho ta tình yêu mà quan yếu là cho ta cảm giác bình yên lạ thường!
“Chỉ là đôi lúc ta chỉ muốn về nhà
Cuộc sống bon chen ta thấy mình mỏi mệt
Một giấc ngủ thôi mọi muộn phiền sẽ hết
Hai chữ bình yên mang tên gọi là nhà”
Bản thân tôi khi mới xa nhà cũng hay tìm cách về quê, chỉ để cùng bạn bè nhâm nhi ly càfe hay ngồi ở một góc khuất nào đó hàn huyên tâm sự cũng đủ thấy bình an.
“Chỉ là đôi lúc muốn một mình lê la
Nơi quán cũ nghe bản nhạc xưa đã cũ
Phố phường đông cho đôi chân lưỡng lự
Dòng đời xô bồ đến rồi kéo ta đi”
Chúa Giê-su sau hành trình 33 năm chốn dương gian đầy truân chuyên, khắc nghiệt, Ngài đã về Quê Trời. Nơi đó có Chúa Cha hằng yêu thương Ngài. Nơi đó không có tham sân si. Nơi đó không có những ganh ghét lọc lừa mưu mô. Nơi đó là chốn bình yên , hạnh phúc trọn vẹn. Nơi đó cũng là nơi mà Chúa Giê-su bảo rằng: Ngài đi để dọn chỗ cho chúng ta, để Ngài ở đâu thì những kẻ tin vào Ngài cũng ở đó.
Hôm nay, lễ Chúa Giê-su về Trời là dịp để chúng ta nhìn lại chuyến đi cuộc đời của Ngài. Ngài đã đi qua kiếp ngườ iđầy thăng trầm hạnh phúc và khổ đau.Ngài đã đi qua những bể dâu của cuộc đời để tiến vào quê trời, là nơi không còn khóc lóc, than van và đau khổ. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời không ngừng chọn theo thánh ý Chúa Chađể từ khước những lời mời mọc của ma quỷ thật ngọt ngào, thật quyến rũ về danh lợi thú trần gian. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời dâng hiến để phục vụ tha nhân và phục vụ tin mừng Nước Trời. Ngài đã sống một cuộc đời như hạt lúa gieo vào lòng đất, chịu mục nát để trổ sinh bông lúa vàng. Ngài đã đi đến cùng của việc xin vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu lời xin vâng cần phải thể hiện bằng chén đắng cuộc đời. Thế nên, Ngài đã được Chúa Cha ân thưởng và siêu thăng lên cõi trời. Ngài đã hoàn thành sứ mạng của mình tốt đẹp và nay về trời chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa Cha.
Đó cũng là con đường mà Chúa luôn mời gọi chúng ta bước theo. Đường thập giá tới vinh quang. Đường hẹp đưa ta vào cõi sống trường sinh. Đường từ bỏ danh lợi thú để sống cao thượng và thanh thoát hơn. Đừng đam mê tật xấu. Đừng nuông chiều xác thịt. Hãy sống tiết độ. Hãy vác thập giá của bổn phận, của hy sinh phục vụ anh em để nhờ đó mà ta được đổi mới nên tốt hơn, nhất là được lột bỏ con người cũ để sống sự sống con người mới, con người của con cái sự sáng, ngõ hầu mai sau cũng được phục sinh với Chúa.
Cuộc đời là một hành trình. Hành trình tiến về thiên quốc. Hành trình này không thể đạt được bằng sự dễ dãi, nuông chiều xác thịt. Hành trình này đòi phải hy sinh, phải phấn đấu mới mong đạt được. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhìn lên trời cao là đích điểm của mình để can đảm từ bỏ những đam mê tội lỗi trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta biết lột bỏ con người cũ cùng những tính hư nết xấu của mình để hoàn thiện mình mỗi ngày nên giống Chúa hơn, ngõ hầu mai sau cũng được về quê trời hưởng phúc vinh quang với Chúa. Amen
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NĂM C
CHỨNG NHÂN– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách. Một nhà buôn Âu Châu đi ngang qua, hỏi xem anh đọc gì? Anh đáp: Đọc Kinh Thánh. Nhà buôn cười cười nói: Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi! Người Phi Châu đáp: Nếu ở đây mà Kinh Thánh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi.
Kinh Thánh là lời mạc khải của Thiên Chúa ban cho con người. Đọc Kinh Thánh giúp cho chúng ta nhận biết về chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa chọn lựa, cưu mang và phát triển là để đón nhận Đấng Cứu Thế. Sự hình thành của Kinh Thánh Cựu Ước kéo dài cả mấy ngàn năm đón chờ. Tuy dù dân tộc Do-thái được chuẩn bị cách rất cẩn thận qua Kinh Thánh mạc khải, qua các dấu chỉ và qua các lời tiên tri loan báo, nhưng nhiều người đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đấng mà cha ông bao năm mong chờ. Bởi lẽ các vị lãnh đạo tôn giáo như các Thượng tế, Thầy cả, Tư tế, Luật sĩ, Biệt phái, Nhóm Sađucêô và các Đầu mục, Kỳ lão đã dẫn dân đi lạc vào ngõ khác. Chúa Giêsu đã đến hoàn tất mọi lời Kinh Thánh loan báo về Ngài. Chúa đến không phải để hủy phá lề luật, nhưng làm cho nên trọn. Chúa Giêsu là phiến đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường. Ngài chính là cột trụ trung tâm duy nhất của mọi niềm tin.
Cuộc lữ hành trần thế của dân Do-thái tiến bước dần đến ơn cứu độ. Suy tư và não trạng chung của nhiều người vẫn còn bám víu vào những truyền thống và tục lệ cha ông. Vì thế, họ không dễ dàng mở cửa đón nhận những làn gió mới. Đạo Do-thái với những sinh hoạt tôn giáo, những hệ thống thần học, những luật lệ và những thực hành sống đạo đã ăn rễ sâu trong niềm tin. Một hệ thống tôn giáo quá nặng về phần tổ chức, sống vị luật và chú tâm hình thức. Tâm hồn họ dần rời xa cốt lõi của niềm tin là đời sống nội tâm. Nhiều người chỉ còn tôn thờ Thiên Chúa ngoài môi miệng nhưng lòng họ lại rời xa. Chúa Giêsu xuất hiện như cai gai trước mắt nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời. Chúa công khai giảng dạy tại trung tâm tôn giáo ở Giêrusalem. Chúa đã gặp gỡ mọi thành phần trong dân và đối diện với các nhóm lãnh đạo chuyên biệt. Chúa Giêsu tìm đưa dẫn họ về với căn cốt của đạo. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Sống đạo nội tâm. Sống đạo trong yêu thương, bác ái và vâng phục.
Chúa Giêsu đến để rao giảng tin mừng cứu độ. Chúa mời gọi mọi người sám hối vì Nước Trời đã gần kề. Thời gian đã viên mãn. Chúa thực hiện một cuộc vượt qua mới trong tinh thần mới. Chiếc xe thời gian đã đến, ai không bước lên, sẽ bị tụt lại sau. Mặc dầu có nhiều sự chống đối và chối từ, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh hy sinh cứu độ. Chúa hiến thân chịu chết và đã sống lại. Chúa Phục Sinh đã trở thành niềm hy vọng tuyệt đối cho nhiều người. Có rất nhiều người cùng đồng hành chia sẻ với cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa. Chúa không dấu diếm hay lừa dối những người tin theo Chúa, nhưng Chúa đã báo trước những sự khó khăn, sự bách hại, xua đuổi và chịu hy sinh đau khổ. Qua thánh giá khổ đau mới có thể bước vào vinh quang sự sống. Stêphanô là hoa qủa đầu mùa của niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh đã lãnh nhận triều thiên tử đạo.
Người ta thù ghét cả những người tin vào Chúa Kitô sống lại. Các nhà lãnh đạo tôn giáo là những người đầu tiên lên tiếng phủ nhận, phản đối và bách hại. Tác giả sách Tông Đồ công Vụ kể rằng trước khi bị ném đá cho chết, Stêphanô được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.”(Tđcv 7, 56). Stêphanô đã tuyên xưng đức tin một cách can đảm, dầu phải đối diện với sự đau khổ và sự chết kề bên. Ông đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Stêphano hiểu ý nghĩa lời dạy: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước trời là của họ. Nhưng những người đồng hương không thể chấp nhận một giáo lý mới của một người đã bị kết án tử hình: Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô (Tđcv 7, 57-58).
Stêphanô thấm nhuần Tin Mừng của Chúa: Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ (Tđcv 7, 60). Chúng ta biết máu của các vị thánh tử đạo là hạt giống ươm mầm đức tin. Thật vậy, sau cái chết của Stêphanô, ông Saolô đã được ơn trở lại. Saolô cùng đồng cảnh, đồng thuyền với nhóm đồng hương nhân danh đạo giáo để kết án ném đá Stêphanô. Chúa Giêsu phục sinh đã mở đường đưa dẫn ông Saulô trở về làm nhân chứng cho Ngài. Ông Saulô đã đổi đời và đổi tên thành tông đồ Phaolô. Phaolô trở thành một nhân chứng nhiệt thành. Không sợ gian nan, đau khổ và bách hại, ông đã sống chết cho niềm tin. Cả cuộc đời còn lại Phaolô đã không ngừng rao giảng Chúa Kitô phục sinh cho nhiều người. Ngài cũng đã chịu tử vì đạo và lấy máu đào chứng minh cho niềm tin sắt son.
Chúa Giêsu là kiên thuẫn, là đá tảng và là nơi nương náu cho những tâm hồn tìm kiếm Chúa. Chúa mời gọi mọi người lắng nghe và thực hành lời Chúa, họ sẽ được chia phần vinh quang hạnh phúc: Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một (Ga 17, 22). Chúa Giêsu yêu mến những người Chúa đã chọn và tất cả những ai thuộc về Chúa. Ngài muốn ấp ủ chúng ta như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh. Chúa đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha: Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17, 24).
Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tẩy sách tội xưa và cùng được tham dự vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là chỉ thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa trong một đoàn chiên theo một Chúa Chiên. Chúa cầu nguyện để mọi người nên một trong Chúa. Trở nên một trong ý nghĩa phổ quát. Không phải nên một với người này, người kia hay nhóm này, nhóm nọ. Chúng ta nên một với Chúa Kitô để cùng tôn thờ Thiên Chúa Cha. Chúng ta cùng chia sẻ một niềm cậy trông và một niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu ngày sau. Chúng ta tuyên xưng chỉ có một Chúa, một đức tin và một phép rửa. Chúng ta tin nhận Chúa Kitô: Là An-pha và Ômêga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22, 13).
Trong cuộc sống, chúng ta nhận biết rằng có rất nhiều tổ chức các tôn giáo khác nhau. Tuy các tôn giáo có khác nhau về cơ cấu, tổ chức và thực hành sống đạo nhưng cùng quy hướng về sự tôn thờ một Thiên Chúa và hy vọng cuộc sống vĩnh cửu ngày sau. Chúa Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Con đường dẫn lối vào Nước Trời tuy hẹp nhưng Chúa Giêsu đã đi trước và mở lối đưa đường. Chúa Giêsu phán: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Chúa Kitô là trung tâm điểm qui tụ mọi niềm tin về một mối để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận hạt giống đức tin qua Bí tích Rửa Tội, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm sống niềm tin và hăng say làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NĂM C
CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ
Đức Giêsu lên trời, nhưng Ngài vẫn ở với con người cho đến tận thế. Xin cho ki-tô hữu được nên giống Đức Giêsu mỗi ngày một hơn.
Đức Giêsu lên trời
Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ suốt bốn mươi ngày sau khi Ngài sống lại. Trong thời gian này Người đã ăn uống với các ngài, dạy dỗ các ngài nhiều điều; rồi đến thời đã định, Người đã lên trời trước mắt các ông.
Phải hiểu điều này như thế nào, khi người thời nay biết trái đất tròn; như vậy, trời phía trên đầu của người ở Việt Nam, lại là hướng dưới chân của người ở Mỹ, và ngược lại. Một phi hành gia bay lên vũ trụ, trời là khoảng không đối với họ! Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu không lên trời, nhưng ở lại với con người cho đến ngày tận thế: “Này đây Thầy ở cùng anh em cho đến ngày tận thế” (Mt.28, 20). Làm sao trả lời cho con người ngày nay về việc hai trình thuật dường như trái ngược nhau?
“Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, là một cách nói dùng để chỉ Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, làm gì có tay phải tay trái như con người. Đây là cách nói nhân hình, nghĩa là, nói về Thiên Chúa theo kiểu con người. Để hiểu đúng, không được hiểu theo nghĩa đen. Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, nghĩa là, Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Các ngươi là chứng nhân về những điều này
Không phải tất cả mọi người đều được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Chỉ có một số người được chọn, mới được diễm phúc này, và họ trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Các tông đồ là những người được thấy Chúa, và các Ngài đã là những chứng nhân anh dũng của Đấng Phục Sinh qua việc dùng chính mạng sống mình để làm chứng. “Ngu gì” để chết cho điều không thật hoặc không quan trọng! Sẵn sàng chết để làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh, làm cho điều các tông đồ rao giảng “đáng tin”.
Các tông đồ đã chết. Các ki-tô hữu là những môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt mình, các ki-tô hữu được mời gọi trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh cho con người thời đại hôm nay.
Các tông đồ đã chết để làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Ki-tô hữu hôm nay được mời gọi để sống yêu thương, như dấu chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi ki-tô hữu trong thế giới này. Yêu, đòi phải hy sinh, và cũng là một cách “chết” cho người yêu.
Nên giống Đức Giêsu
Đức Giêsu là thượng tế, là của lễ và bàn thờ. Lời Thiên Chúa nhập thể vì yêu con người, Ngài đã chết để đền tội con người, để con người không phải chết vì tội mình nữa nhưng được sống, vì có người đã chết thế cho mình.
Đức Giêsu dùng chính máu Ngài để thanh tẩy tội lỗi con người. Ngài thương cảm con người với những yếu đuối và giới hạn của họ. Ngài đã trải qua tất cả những gian nan thử thách, để con người có can đảm tới với Ngài.
Là người, anh chị em với nhau. Mỗi người phải trở nên một “Giêsu khác” để thông cảm và nâng đỡ anh chị em mình. Mỗi người được mời trở nên giống Đức Giêsu, bằng “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Theo bạn, Đức Giêsu Phục Sinh bây giờ đang ở đâu? Xin giải thích.
Trong đời tu hoặc đời sống ki-tô hữu, người ta thường nói tới “cái chết không đổ máu”, bạn hiểu điều này như thế nào? Cho thí dụ.
Người nên giống Đức Giêsu nhất, là người có những đức tính nào?
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NĂM C
MỪNG CHÚA LÊN TRỜI- Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Chúng ta đã trải qua 40 ngày mừng Chúa Phục Sinh, hôm nay cùng với Giáo Hội chúng ta hân hoan mừng kỷ niệm Chúa về trời. Mừng Chúa lên trời, là chúng ta tuyên xưng một tín điều trong Kinh Tin Kính đó là: “Người sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha”. Chúa lên trời dạy chúng ta điều gì?
-Ngài dạy chúng ta một chân lý: “Sự sống này thay đổi chứ không mất đi, chết không phải là hết, không phải là tận cùng, nhưng là bước vào một cuộc sống mới “. Như vậy chúng ta xác tín rằng: đây là cuộc sống lữ hành “Sống gửi thác về”. Bởi thế gian không phải là nhà, Thiên đàng hoan lạc mới là quê hương. Chúa đi trước dọn chỗ cho chúng ta, nơi đó là cõi nguồn hạnh phúc, là phần thưởng dành cho những ai suốt đời khao khát tìm kiếm những sự trên trời.
Chúng ta hy vọng ngày mai đây sau khi nhắm mắt lìa đời, sẽ được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước trời, nếu ở đời này chúng ta ăn ngay ở lành và gắng bước theo Chúa. Chúng ta tin rằng mọi việc lành đều sinh công phúc; mọi đau khổ nếu vui lòng chịu vì lòng yêu mến, Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau. Vì Chúa trải một kiếp người đầy đau khổ mới bước vào vinh quang ngàn đời.
– …. Ngài dạy chúng ta đi rao truyền chân lý
Chúa về trời, là Ngài hoàn tất sứ mạng rao giảng Tin mừng, Ngài trối sứ vụ đó cho các môn đệ cũng như cho chúng ta như một bài sai: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân tất cả những điều Thầy đã truyền cho các con…” (Mt. 28,19).
Chúa muốn chúng ta tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin mừng cứu độ. Bởi vì trong ba năm đi rao giảng, bước chân của Ngài chỉ đi trong nước Palestine nhỏ bé, còn lại cả một thế giới mênh mông ngút ngàn Ngài chưa đi tới. Còn biết bao dân tộc xa xăm chưa biết Chúa là ai, chưa một lần nghe nói về danh thánh Ngài; chưa biết được hạnh phúc Nước trời là gì. Chính vì lẽ ấy Chúa mời gọi: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng…” (Mc. 16,15).
Nhưng trước khi sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin mừng, thì Chúa Giêsu đã ra đi trước rồi. Ngài vâng lệnh Chúa Cha ra đi từ trời cao xuống đất thấp. Ngài ra đi từ địa vị Thiên Chúa xuống làm con người, để ở cùng ở với chúng ta.
Ngài ra đi khỏi gia đình êm ấm lang thang trên khắp nẻo đường. “Con chim có tổ, con chồn có hang, Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8, 20).
Chúa không ngừng ra đi đến với mọi miền đất nước. Chẳng hạn như: Chúa đến miền Thập Tỉnh phần đông là người ngoại đạo. Miền bị ma quỉ thống trị. Miền mồ mả chìm trong bóng tối sự chết. Chúa đến và gặp người khổ cực nhất. Chúa đã giải thoát họ khỏi thần chết, đem lại ơn sức sống cho họ.
Noi gương Chúa, chúng ta không những ra đi khỏi ngôi nhà êm ấm, nhưng còn là ra đi khỏi con người sống chủ nghĩa cá nhân, an phận, lo vun đắp cho mình, mà không hề biết dấn thân, quảng đại chia sẻ với những người kém may mắn.
Qua mọi thời đại, Chúa vẫn tiếp tục sai chúng ta ra đi gieo rắc tình thương, loan tin bình an, cùng nhau xây dựng một nền văn minh tình thương, để con người xích lại gần nhau hơn, sống công bình bác ái, như lòng Chúa mong muốn.
-. … Ngài dạy chúng ta lo tìm kiếm nước Chúa
Tìm kiếm Nước Chúa là mỗi sáng khi thức dậy, người đầu tiên chúng ta phải nhớ là Chúa. Việc suy nghĩ tìm kiếm đầu tiên phải là Nước trời, bởi vì Chúa nói “Tiên vàn, các con hãy tìm kiếm Nước Trời trước, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho sau ” (Mt 6,33).
Anh chị em thân mến,
Mừng kỷ niệm Chúa Giêsu lên trời và lời Ngài hứa “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “(Mt. 28,20). Chúng ta hiểu rằng: Chúa lên trời không theo nghĩa thể lý hay không gian. Mặc dù Chúa không hiện diện cách hữu hình nữa, nhưng Ngài vẫn hiện diện cách thiêng liêng và đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường dương thế.
Mừng lễ Chúa lên trời, xin Chúa giúp chúng ta đừng tìm kiếm những sự mau qua ở đời này, nhưng hãy lo tìm kiếm những sự trên trời, bằng cách sống chân lý Chúa dạy; biết thi hành mệnh lệnh Chúa trao, và lo tìm kiếm Nước Chúa. Có như thế, chúng ta mới hy vọng sau khi nhắm lìa đời, chúng ta được Chúa cho sống lại với Chúa trên Nước Trời. Amen.
CHÚA NHẬT CHÚA THĂNG THIÊN- NĂM C
SỐNG MẦU NHIỆM LÊN TRỜI – Lm. Thiện Duy
NHẬP LỄ
Kinh Nghĩa Đức Tin mà chúng ta đọc mỗi ngày Chúa Nhật, là tóm kết tất cả những điều chúng ta phải tin và những việc chúng ta phải làm để thể hiện đức tin của chúng ta. Trong niềm tin đó có việc Chúa Giêsu chịu chết, sống lại, khỏi 40 ngày lên trời. Còn trong Kinh Tin Kính cũng có đoạn nói về sự việc này là Chúa Giêsu sống lại, lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trong những tuần vừa qua, nếu có đi lễ ngày thường chúng ta sẽ được nghe diễn từ giã biệt của Chúa Giêsu, có nghĩa là những lời từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài. Ngài cho các môn đệ biết là Ngài sẽ trở về với Chúa Cha. Cụ thể trong những bài đọc hôm nay cũng có nhắc đến việc Chúa Giêsu lên trời: “Nói xong Người được cất lên ngay trước mắt các ông”. Còn Tin Mừng Maccô trong Chúa Nhật năm B thì sẽ có tường thuật giống như sách Tông Đồ Công Vụ: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Vì thế việc Chúa Giêsu “lên trời” là một sự thật. Tuy nhiên Chúa Giêsu lên trời có phải là Ngài không còn ở với chúng ta nữa hay không? Chúng ta phải hiểu “lên trời” nghĩa là gì? Việc “lên trời” của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì trong cuộc sống chúng ta? Và cuối cùng là chúng ta phải làm gì khi nghe những lời sau cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời?
*I/ BIẾN CỐ LÊN TRỜI CỦA CHÚA GIÊSU
*1/ Lên trời nghĩa là gì?
Đức Kitô Phục Sinh đã vào trong vinh quang, đó là một tín điều. Nhưng đó còn là một mầu nhiệm vượt quá kinh nghiệm giác quan, và có lẽ không chỉ hạn hẹp nơi ngọn núi ở Galilê mà Chúa Giêsu hẹn gặp các môn đệ hôm nay. Lên trời là giải thích theo ngôn ngữ của con người cho dễ hiểu. Theo quan niệm phổ biến của Thánh Kinh, trời là chỗ ở của thần minh, do đó cũng được dùng một cách tượng trưng để chỉ Thiên Chúa. Còn đất là nơi loài người cư ngụ. Tình trạng tốt đẹp, khá hơn thì gọi là “lên” (gặp một người làm ăn khá giả mình nói: “lúc này lên hương rồi hé!”). Tình trạng lùi lại, xấu hơn thì gọi là “xuống” (Lâu ngày gặp lại một người bạn ốm nhom, hốc hác, mình nói: “sao lúc này xuống dữ vậy!”). Ngày xưa khi Ngài nhập thế thì gọi là “xuống trần”. Hôm nay Ngài trở lại với tình trạng vinh quang thì gọi là “lên trời”. Vì vậy “lên trời” đối với Chúa Giêsu không phải là một hành động bay đến một nơi, nhưng đó là tình trạng Ngài đã lấy lại vinh quang. Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta, vì Ngài đã nói: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Hiểu như vậy để chúng ta đừng nghĩ rằng Chúa Giêsu lên trời là Ngài rời bỏ chúng ta, không còn ở với chúng ta. Nhưng mừng lễ Chúa Giêsu lên trời là chúng ta mừng vinh quang của Chúa, mừng Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Tuy nhiên Ngài không còn hiện diện một cách hữu hình với con người nữa, hay nói cách khác: xác phàm của con người không thể thấy được vinh quang của Đức Kitô Phục Sinh.
*2/ Biến cố “lên trời” trong đời sống kitô hữu
Khi lần chuỗi với mầu nhiệm năm sự mừng, chúng ta đọc: “Thứ hai ĐGS lên trời. Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”. Thánh Phêrô thì khuyên các tín hữu của mình: “Nếu anh em sống lại làm một với Đức Kitô, thì anh em cũng phải tìm kiếm những thực tại cao siêu ở trên trời”. Còn trong Hiến Chế về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II thì xác quyết: “Giáo Hội trần thế là một cuộc lữ hành về quê hương trên trời”. Vì thế, tuy sống ở đời này, nhưng chúng ta phải lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau. Thánh tử đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh đã nói trước khi bị hành hình: “Thân xác tôi đây các ông muốn làm gì thì làm đi, nó sẽ chết nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang”. Không cần ở đâu xa, ngay tại họ đạo Tắc Sậy của Giáo Phận Cần Thơ cũng có một con người biết qu#ý trọng thực tại cao siêu ở trên trời nên đã sẵn sàng từ bỏ những thứ chóng qua ở đời này để đổi lấy hạnh phúc đời sau. Người đó không ai khác hơn là cha Px. Trương Bửu Diệp.
*3/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu
Điểm thứ 3 mà chúng ta cần lưu ý qua biến cố Chúa Giêsu lên trời là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đây là mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không chọn Giêrusalem vừa là thủ đô, vừa là cái nôi của Kitô giáo để gặp gỡ các môn đệ, nhưng Ngài chọn Galilê là vùng đất bị người Dothái loại trừ, là biểu tượng của dân ngoại. Ngài không chọn vùng đồng bằng để tâm sự với các ông, nhưng lại chọn ngọn núi cao vốn là nơi mặc khải của Thiên Chúa, để từ nơi cao đó các ông sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh phải tỏa rạng vinh quang của Thiên Chúa. Vì vậy những lời sau cùng của Chúa Giêsu, cách thức gặp gỡ của Ngài muốn nhắc nhở các môn đệ sứ mạng truyền giáo, bằng cuộc sống tỏa sáng cho mọi người noi theo.
*II/ CUỘC SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời với 3 sự thật về ý nghĩa của việc lên trời, về việc Chúa lên trời trong đời sống của người kitô hữu và mệnh lệnh truyền giáo của Chúa, chúng ta phải sống những điều đó như thế nào đây?
*1/ Chúa lên trời nhưng vẫn ở với con người
Trước hết chúng ta đã biết lên trời là tình trạng vinh quang của Chúa Giêsu. Vì vậy nhờ vinh quang mà Ngài càng có thể ở cạnh con người, càng giúp đỡ con người một cách đắc lực hơn. Cho nên chúng ta hãy nhớ rằng Chúa sẽ ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, để chúng ta sống là sống cho Chúa, sống trong Chúa và sống với Chúa. Mọi sự bất toàn nơi con người chúng ta là do không y thức sự hiện diện của Chúa. Nếu chúng ta biết và nhớ rằng Chúa luôn ở bên cạnh tôi thì làm sao chúng ta có thể làm những điều xấu được. Vì vậy làm sao để chúng ta ý thưc sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta đây? Chúng ta hãy dựa vào những phương thế siêu nhiên mà Chúa và Giáo Hội đã dạy chúng ta. Đó là năng đọc và suy niệm lời Chúa; lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Giải Tội; siêng năng lần chuỗi mân côi; đọc lời nguyện tắt, có nghĩa là chọn một câu nào đó mình thích để lặp đi lặp lại suốt ngày trong đời sống chúng ta. Ví dụ: “Lạy Chúa Giêsu xin thương xót con”, hay: “Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa”. Chúng ta hãy nhớ rằng tự sức chúng ta và những phương thế tự nhiên không thể nào thắng được ba thù: thế gian, ma quỷ và xác thịt đâu; chỉ có ơn Chúa và phương thế siêu nhiên mới có thể giúp sức cho chúng ta mà thôi.
*2/ Hướng lòng lên trời
Từ việc Chúa lên trời cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa. Vì vậy ngay từ bây giờ chúng ta phải chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Chuẩn bị cho cuộc sống mai sau có nghĩa là chúng ta phải biết rằng cuộc sống này chỉ là tạm bợ, chóng qua, để chúng ta không bám víu vào mà chỉ lo tìm kiếm những thứ thuộc về đời này, những thứ mà Chúa Giêsu gọi là thuộc về thế gian. Đồng thời chúng ta phải sống thực tại Nước Trời ngay tại trần gian này. Mà thực tại Nước Trời là gì nếu không phải là tình yêu thương. Do đó dấu hiệu để chúng ta biết mình sống ở đời này mà có lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau hay không chính là việc chúng ta có thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống hay không.
*3/ Thực hiện lệnh truyền giáo
Cuối cùng, chúng ta phải thực hiện di chúc của Chúa Giêsu, đó là “anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Đó cũng là ước nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu, muốn cho mọi người được vào Nước Trời với Chúa. Vì vậy bổn phận của chúng ta là phải đem Chúa đến cho những người chưa biết Chúa, hay còn gọi là truyền giáo. Truyền giáo là làm sao? Chúng ta khoan hãy nghĩ đến chuyện lôi kéo nhiều người vô đạo, làm sao cho càng có nhiều người được rửa tội càng tốt… đó là cách thức của việc truyền giáo. Nhưng trước hết chúng ta hãy nghĩ đến nội dung truyền giáo, có nghĩa là Tin Mừng mà chúng ta muốn truyền đạt là như thế nào; có hấp dẫn người ta mới theo, có đáng tin người ta mới vào. Điều đó đòi hỏi bản thân chúng ta trước hết phải cảm nhận được điều mình muốn truyền đạt. Mình phải cảm thấy niềm vui, hạnh phúc trong đời sống đạo thì mình nói người ta mới tin. Khi đã có nội dung của Tin Mừng rồi thì phần còn lại là cách chúng ta trình bày cho người khác bằng lời rao giảng, bằng cách sống đạo, bằng lời cầu nguyện… Lúc đó người ta tin chúng ta không phải vì lời rao giảng, không phải vì những việc chúng ta làm, nhưng vì hạnh phúc chúng ta đang cảm nhận, niềm vui chúng ta đang có, và hy vọng chúng ta đang mong chờ.
Tóm lại, Phụng Vụ Lời Chúa trong lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay cho chúng ta biết rằng việc lên trời của Ngài là trở lại tình trạng vinh quang thuở ban đầu, nên Ngài vẫn hiện diện và càng ở bên cạnh để ban ơn giúp sức cho chúng ta. Nhờ Chúa Giêsu lên trời mà chúng ta tuy sống ở đời này nhưng vẫn hướng lòng về trời cao để sống giá trị của Nước Trời ngay tại thế này để hy vọng một ngày nào đó cũng được về trời với Chúa. Cuối cùng vì niềm tin vào việc chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa nên chúng ta có bổn phận làm cho người khác cũng được vào Nước Trời, bằng cách phải cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì tôi là người kitô hữu, từ đó lời rao giảng của chúng ta mới có sức mạnh lôi kéo người khác. Lạy Chúa, xin cho con lòng ái mộ những sự cao siêu ở trên trời.