CÁC BÀI SUY NIỆM LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN – NĂM B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973 2
TÌNH YÊU VÀ TẤM LÒNG(*)– Chú giải của Noel Quession. 6
QUY LUẬT SỐNG CHO NGƯỜI TÍN HỮU (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông 13
“GIỚI RĂN THIÊN CHÚA” VÀ “TRUYỀN THỐNG LOÀI NGƯỜI”- Chú giải của Fiches Dominicales 27
CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TRUYỀN THỐNG CỦA BIỆT PHÁI- Chú giải mục vụ của Jaques Hervieux 38
LỀ LUẬT VÀ TẤM LÒNG- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái 43
LỀ LUẬT VÀ TRUYỀN THỐNG– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm.. 74
VỚI CẢ TÂM TÌNH- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt 91
CAO CẢ VÀ BI ĐÁT- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An. 96
SAO BỎ LUẬT CHÚA MÀ GIỮ TỤC LỆ PHÀM NHÂN– Lm. Trần Bình Trọng 105
ĐƯỜNG HAY PHÁO ĐÀI- Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng. 109
HÃY SỐNG CHÂN THẬT- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền. 116
HÀNH LUẬT- Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 119
NÉT ĐẸP VÀ TÂM HỒN- Lm Vũ Xuân Hạnh. 125
TẬP TỤC VÀ LỜI CHÚA- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ. 130
ĐẠO TẠI TÂM – Lm Anphong Trần Đức Phương. 135
CỘI NGUỒN CỦA SỰ ÁC- Lm Inhaxiô Trần Ngà. 139
LUẬT CHÚA BAN HÀNH NHẰM THĂNG TIẾN ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI- Lm. Trần Bình Trọng 143
GIẢ HÌNH (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý. 149
GIỮ LUẬT VỚI LÒNG MẾN CHÚA- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 156
TÔN KÍNH BẰNG MÔI MIỆNG- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB.. 160
TỪ LÒNG CON NGƯỜI PHÁT XUẤT NHỮNG TƯ TƯỞNG XẤU – Lm. Phêrô Lê Văn Chính 164
LUẬT TÌNH YÊU- Trích Logos B.. 169
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC – Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973
“Các ngươi hãy tuân giữ các giới răn và đem thực hành bằng việc làm”.
Bài trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: “Hỡi Israel, giờ đây hãy nghe các lề luật và huấn lệnh mà ta dạy bảo các ngươi phải thực hành, để được sống và được vào chiếm hữu phần đất mà Chúa là Thiên Chúa cha ông các ngươi sẽ ban cho các ngươi. Các ngươi chớ thêm bớt điều gì trong các điều ta đã truyền, nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà ta đã truyền dạy các ngươi. Các ngươi phải tuân giữ và thực hành, vì đó là sự khôn ngoan và sáng suốt của các ngươi trước mặt muôn dân, để khi nghe nói đến tất cả các lề luật ấy, họ nói: ‘Thật, dân tộc vĩ đại này là một dân khôn ngoan và sáng suốt’. Không một dân tộc nào được các thần ở bên cạnh mình, như Chúa là Thiên Chúa chúng ta, ở bên cạnh chúng ta, khi chúng ta kêu cầu Người. Có dân tộc thời danh nào khác có lễ nghi, huấn lệnh công chính, và bộ luật như ta trình bày trước mặt các ngươi hôm nay không?”
“Vậy các ngươi hãy ý tứ và giữ mình. Trong suốt đời các ngươi đừng quên và đừng để lòng xao lãng những điều các ngươi đã thấy. Hãy dạy cho con cháu các ngươi biết các điều ấy”.
Ðó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 4c-5
Ðáp: Lạy Chúa, ai sẽ được ở trong đền tạm Chúa? (c. 1a)
1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống.
2) Người không làm ác hại bạn đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa.
3) Người dẫu thề điều chi bất lợi, cũng không thay đổi, không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay.
BÀI ĐỌC II: Gc 1, 17-18. 21b-22. 27
“Anh em hãy thực thi lời đã nghe”.
Bài trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em thân mến, mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo đều do tự trời, bởi Cha sáng láng ban xuống, nơi Người không có thay đổi và cũng không có bóng dáng sự thay đổi. Người đã muốn sinh ra chúng ta bằng lời chân thật, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các tạo vật. Cho nên anh em hãy khử trừ mọi thứ nhơ bẩn và lòng đầy gian ác, anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy thực thi lời đã nghe, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này.
Ðó là lời Chúa.
ALLELUIA: Ga 14, 5
All. All. – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – All.
PHÚC ÂM: Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23
“Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: “Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?” Người đáp: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”. Và Người lại gọi dân chúng mà bảo rằng: “Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”.
Ðó là lời Chúa.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
TÌNH YÊU VÀ TẤM LÒNG(*)– Chú giải của Noel Quession
Có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến
Đối với Maccô, nơi chốn luôn có một giá trị biểu tượng Giêrusalem là nơi chống đối Đức Giêsu. Qua mười một chương đầu của Tin Mừng trong suốt phần đầu của sứ vụ Đức Giêsu, mỗi lần kể tên thành phố này là nhắc đến sự chống đối: Chính từ Giêrusalem, Thủ đô chính trị và tôn giáo này, đã xuất phát mọi cuộc công kích đầy ác ý. Chính nơi đó, những nhà hữu trách của đất nước sau này sẽ kết án tử hình Chúa, và giao nộp Chúa cho dân ngoại.
Lạy Chúa, đây là mầu nhiệm việc loài Người ruồng bỏ Chúa. Và theo đó, Giêrusalem cũng tượng trưng cho toàn thế giới.
Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng.
Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh, mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “nhơ”, được ghi thành luật của Môsê trong sách Lêvi (11), được thêm vào nhiều chi tiết và quy định qua truyền thống. Người Pharisêu đã thành lập một thứ đảng phái tôn giáo mà chúng ta có thể lầm lẫn nếu tự động xem họ như những người giả hình. Ngược lại, để trung thành với lề luật tổ tiên, họ tuân giữ kỹ lưỡng từng chi tiết truyền thống: Họ đã kê ra hơn 600 giới răn phải tuân giữ! Để tìm hiểu sự thánh thiện và thể hiện tình yêu tinh tế đối với Chúa, lúc nào trong ngày họ cũng nghĩ về Chúa, dù phải làm đủ thứ việc.
Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”.
Có nhiều cách giải thích cho thái độ này:
1) Môn đệ của Đức Giêsu và chính Đức Giêsu, là những người xứ Galilê, những người thuộc tỉnh lẻ, dù vẫn là những tín hữu sốt sắng, nhưng đã cho chen vào tục lệ chung một vài truyền thống địa phương bị những người “trong sạch” ở Giêrusalem coi như những thái độ buông thả. Chúng ta biết rằng Đức Giêsu thường bênh vực những người bị đăt ra “ngoài lề”, những người bị khinh chê: Đó là loại người tội lỗi thu thuế, gái điếm. Đức Giêsu đã bày tỏ quan điểm mạnh mẽ về lòng xót thương và độ lượng với những kẻ hèn mọn, nghèo khổ… nghịch lại thái độ xét đoán khắt khe của Giêrusalem. Còn chúng ta thì sao?
2) Nhưng có một lý do khác, có lẽ quyết định hơn: Đó là Đức Giêsu có một đường hướng sâu sắc về “tính phổ quát”. Người huấn luyện dần dần các môn đệ để thành thừa sai trong những quốc gia có văn hóa khác với môi trường Do Thái cổ truyền: Những khuôn khổ chật hẹp và rất cá biệt của đạo Do Thái cần phải bung ra, để chỉ còn giữ những điều cốt yếu, nhằm cho người ngoại giáo có thiện chí, không có những tục lệ về ăn uống như người Do Thái, có thể đón nhận đức tin.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết phân biệt những gì là cốt yếu trong sứ điệp của Chúa với những gì là tục lệ cổ truyền của những thế kỷ trước, thường làm cho những người thuộc thời đại chúng con chán ngán một cách vô lý. Lạy Chúa, sống giữa thời đại biến đổi văn hóa này, xin cho chúng con nhận biết những gì là bất di bất dịch và những gì phải thay đổi, để cho hậu thế không bị nhũng lại trước đức tin, chỉ vì chúng con quá ràng buộc họ vào những “tập tục người xưa”.
3) Nhưng lát nữa, Đức Giêsu còn đưa ra một lý do thứ ba cho thái độ mới mà Người đề cao: Đó là những “tục lệ” không phải do Chúa, mà phát sinh từ con người của những thời trước. Vậy, những tập tục này cần phải tùy thuộc vào sự tiến hóa.
Người trả lời họ: “Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”
Câu trả lời của Chúa thật là mạnh mẽ. Người bắt đầu tấn công. Người dựa trên Kinh thánh để trả lời cho những kẻ tấn công môn đệ của Người (Is 29,13). Các ngôn sứ cũng thường lên án thứ tôn giáo duy hình thức đó. Đối với Thiên Chúa, không phải những cử chỉ bên ngoài là quan trọng, mà là “tấm lòng”. Thờ phượng chỉ để thờ phượng, thì không có giá trị. Việc phụng tự phải nói lên những xác tín sâu xa.
Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:
Đức Giêsu kêu gọi, cần phải hiểu biết và suy tư. Không cần phải lặp lại những cử chỉ hay tập tục, chỉ vì người ta đã làm như vậy từ lâu.
Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
Trong Do Thái giáo, luật về sự thanh sạch theo nghi thức có nhiều ảnh hưởng đối với chế độ ăn uống: Cấm ăn thịt một số động vật, chẳng hạn theo sách Lêvi 11. thì bất cứ thịt nào cũng là dơ bẩn, hay những con thú không bị cắt tiết (Lc 17,10-14). Những quy định này làm cho sự đồng bàn đồng tịch giữa người Do Thái và không phải Do Thái không thể nào thực hiện được, nếu không chấp nhận theo tục lệ người Do Thái. Đó là một thứ rào cản để bảo vệ Người Do Thái không được tiếp cận với thế giới ngoại đạo. Còn Đức Giêsu thì tuyên bố: “Tất cả các thức ăn đều thanh sạch” (Mc 7,19). Quan điểm này lúc bấy giờ có vẻ cực kỳ lạ lùng, táo bạo, và phóng khoáng. Như ngày nay chúng ta vẫn thường nói. Chúng ta biết rằng, trong Giáo Hội sơ khai, vấn đề này chưa được giải quyết (Cv 10,15).
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu:
Yếu tố làm cho con người ra nhơ bẩn thực sự, không phải cái người ta ăn, mà là điều người ta nghĩ. Sự nhơ bẩn không nằm trong vật chất bên ngoài của một hành vi nào đó mà là trong lòng chúng ta? ở đây, Đức Giêsu đưa vào luân lý một nguyên tắc hết sức cốt yếu, nhưng không được tâm tri người thời nay áp dụng thực sự: Có những kiêng kỵ vẫn còn tồn tại, là rất trái ngược với Tin Mừng. Hai hướng tinh thần giáo phái “Cathare” vẫn tồn tại. Giáo phái này lên án thân xác và vật chất. Nhưng Kitô hữu đầu tiên hẳn là đã phải chiến đấu chống lại Ngộ đạo thuyết và thuyết “Ma-nét” là nhưng chủ thuyết khinh bỉ phái tính: “Tất cả những gì Chúa đã dựng nên đều là tốt và không có gì là độc hại nếu ta đón nhận những điều đó trong thái độ tạ ơn”.
Thánh Phaolô đã nói như vậy (1Tm 4,4). Chúng ta cần ghi nhận rằng, Đức Giêsu không vì thế mà cố biện minh cho chứ quan thuyết có lẽ sẽ làm mất bản chất tư tưởng của Chúa, nếu hiểu những lời này như là một sự biện minh cho chủ trương “tự do phong tục”: Nghĩa là mỗi người có quyền làm những gì theo tiếng nói con tim! Đức Giêsu không loại tự ý niệm về “điều xấu”. Người xác định vị trí điều xấu đó ngay bên trong con người, trong sự thiếu tình thương. Đó là nguyên tắc căn bản của mọi thứ đạo đức mọi nền luân lý không phải sơ đẳng: Chỉ cần làm một cử chỉ nào là tự động phạm một tội thì chưa đủ. Cái xấu không phải ở trong sự vật, nó ở bên trong chúng ta. Vâng, tâm hồn chúng ta là nguồn phát sinh ra thứ nước ô nhiễm do lòng ích kỷ hãy nước trong sạch do tình yêu của chúng ta. Do đó chúng ta không thể xét đoán Người anh em theo bề ngoài, vì chúng ta không thấy được tâm hồn người ấy, lương tâm người ấy.
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Đây là danh mục duy nhất về tội lỗi mà Chúa Kitô đã cho chúng ta biết, ngang qua đời sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Tất cả những tội lỗi này liên quan đến tình yêu, đến tha nhân. Đức Giêsu kể ra 4 nhóm mỗi nhóm 3 tật xấu. Trong tiếng Hy Lạp 6 tật xấu đầu tiên được nói theo số nhiều và 6 tật xấu sau được nói theo số ít. Điều đó chỉ nhằm giúp dễ đọc để dễ thuộc lòng. Vậy thì có 12 tội: Con số của sự sung mãn. Tất cả đều ở đấy. Chúng ta phải thương yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán dựa theo tình yêu và tấm lòng của chúng ta (Mt 25).
Rất có thể con người ngày nay không thích kể ra những tật xấu. Thời đại của chúng ta đã đánh mất quá lớn ý thức về một điều cốt yếu trong mọi nền văn minh cổ đại: Đó là vẻ đẹp của đức tính và cái xấu của tội lỗi. Chúng ta cần lưu ý rằng, luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát biết bao! Đức Giêsu biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên nhất mà Đức Giêsu đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập truyền tổ tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản này mà mọi người đều phải công nhận trong thâm tâm của mình .
Hỡi người anh em, không nên lướt đọc quá nhanh danh mục trên, như nó không liên quan gì đến bạn. Bạn hãy tự hỏi sự tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng đã mang một hình thức rõ rệt nào, hay đội lốt gì đối với bạn?
Lạy Chúa, xin hãy thanh tẩy chúng con và giúp chúng con được gần Chúa hơn.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
QUY LUẬT SỐNG CHO NGƯỜI TÍN HỮU (*)- Lm Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXII nầy đều hướng về một đề tài chung: những huấn lệnh của Thiên Chúa là quy luật sống cho mỗi người tín hữu.
Đnl 4: 1-2, 6-8
Lề Luật diễn tả sự khôn ngoan và thánh thiện của Thiên Chúa; mỗi người phải lắng nghe và sống.
Gc 1: 17-18, 21b-22, 27
Người tín hữu không chỉ đón nhận Lời Chúa nhưng còn phải thực hành Lời Chúa trong đời sống nữa.
Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23
Người ta không được thay thế những huấn lệnh của Thiên Chúa bằng những quy tắc phàm nhân, bởi vì những quy tắc phàm nhân xem việc tuân giữ bên ngoài là quan trọng, thì những huấn lệnh Thiên Chúa biến đổi con người từ bên trong.
BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 1-2, 6-8)
Tác phẩm nầy chủ yếu được cấu thành bởi diễn từ của ông Mô-sê, được đặt vào trong bối cảnh hư cấu ở đó ông Mô-sê ngỏ lời với dân Do thái trước khi họ tiến vào Đất hứa, để cảnh giác họ coi chừng những nguy hiểm đang rình rập họ khi sống ở giữa môi trường ngoại giáo và khẩn khoản kêu mời họ trung thành tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa. Thật ra, con cái Ít-ra-en đã định cư ở đất Ca-na-an từ lâu rồi; họ đã để cho mình bị quyến rủ bởi việc phụng thờ các thần linh của dân bản địa rồi; họ cũng đã để cho mình bị tiêm nhiểm bởi lối sống duy vật, dễ dãi, thậm chí xa đọa.
Bối cảnh hư cấu nầy cho phép trình bày một bài giáo lý đích thật về Giao Ước, được đặt dưới sự bảo lãnh của ông Mô-sê và mặc lấy cung giọng khuyên bảo khẩn thiết.
Lề Luật là nguồn sống:
“Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe…”. Biểu thức nầy thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật, thường nhất được dùng một cách tuyệt đối, không có túc từ: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en” (Đnl 5: 1; 6: 4; 9: 1; 20: 3; 27: 9). Kinh nguyện hằng ngày của người Do thái bắt đầu với lời mời gọi này: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”, được mượn ở Đnl 6: 4-9.
“Như vậy, anh em sẽ được sống”. Điều mà bản văn Đệ Nhị Luật nầy nhắm đến là cuộc sống của dân Ít-ra-en với tư cách dân Giao Ước. Không tuân giữ Lề Luật đồng nghĩa với việc vi phạm Giao Ước, tức là đánh mất những phúc lộc mà Thiên Chúa hứa ban. Vì thế, tiếp liền ngay sau những lời nầy là: “Như vậy, anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, là Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em”. Việc thực hành các huấn lệnh gắn liền với niềm xác tín rằng Thiên Chúa đảm bảo cho họ một cuộc sống trường thọ và thịnh vượng. Vào thời điểm nầy, những viễn cảnh vẫn còn bị giới hạn trong chân trời trần thế; những hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được dự kiến.
Đối với dân Ít-ra-en, việc tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa là vấn đề sống chết. “Thế phải chọn lựa” này được đặt ra nhiều lần một cách nghiêm túc: “Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh anh em, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng ở giữa anh em, là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nổi cơn thịnh nộ với anh em và tiêu diệt anh em” (Đnl 6: 14-15) hay còn: “Nhưng nếu chẳng may anh em quên lãng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong” (Đnl 8: 19).
Những hoàn cảnh lịch sử đã đem lại cho thế chọn lựa nầy tính cách bi thảm. Quả thật, có thể nghĩ rằng sách Đệ Nhị Luật, trong cấu trúc đầu tiên của nó, được các tư tế của vương quốc phương Bắc soạn thảo. Với tư cách những chứng nhân về những tội bất trung của dân Ít-ra-en, họ đã đưa ra lời mời gọi như cơ hội cuối cùng. Ấy vậy, vào năm 721 trước Công Nguyên vương quốc phương Bắc bị các đạo quân Át-sua triệt hạ. Vài tư tế trốn thoát được lánh nạn sang vương quốc phương Nam và đem theo bản văn của mình. Bản văn nầy được cất dấu trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem vào triều đại Mơ-na-sê, vị vua vô đạo (687-642 tCn.), bị quên lãng một thời gian dài và sau cùng được khám phá vào lúc trùng tu Đền Thờ. Lúc đó, nó được dùng làm nền tảng cho cuộc cải cách tôn giáo của vua Giô-si-gia-hu (622 tCn.). Bản văn này đã được duyệt xét lại và bổ túc. Đây là điều mà người ta gọi ấn bản thứ hai của sách Đệ Nhị Luật.
Những huấn lệnh Tin Mừng cũng xuất hiện như những quy luật sống. Đức Giê-su sử dụng hầu như cùng những từ ngữ như ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật, nhưng Ngài cho từ “sống” ý nghĩa tròn đầy của nó, vượt quá không gian và thời gian của cuộc sống trần thế này, khi nói với chàng thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19: 16-17).
Lề Luật bất khả xâm phạm:
“Anh em đừng thêm gì…cũng đừng bớt gì…”. Lời căn dặn kép nầy nói lên nỗi bận lòng của nhà lập pháp. Biểu thức nầy được gặp thấy trong Bộ Luật của vua Hammourabi ở Ba-by-lon vào thế kỷ XVIII tCN, cũng như trong những hiệp ước giữa các dân tộc. Người ta cũng gặp thấy biểu thức này trong Tân Ước, như câu sau cùng của sách Khải Huyền: “Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong sách nầy! Ai mà bớt điều gì trong các lời của sấm ngôn nầy, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và thành được mô tả trong sách nầy” (Kh 22: 18-19).
Thật ra ông Mô-sê không là người công bố tính bất khả xâm phạm của Lề Luật, ông chỉ là người trung gian truyền đạt những huấn lệnh của Thiên Chúa.
Lề Luật là lẽ khôn ngoan:
Lề Luật là lẽ khôn ngoan cho mỗi người, vì nó là kim chỉ nam cho cuộc sống đức hạnh (đây là ý nghĩa của từ Híp-ri To-ra để chỉ Lề Luật).
Trong toàn bộ đoạn văn nầy, tác giả đặt trên môi miệng của ông Mô-sê ngôn từ của một bậc hiền nhân; văn phong rất gần với sách Châm Ngôn và sách Ba-rúc: lời mời gọi để tâm suy niệm lẽ khôn ngoan được diễn tả bằng những ngôn từ tương tự: “Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en, những mệnh lệnh tặng ban sự sống, hãy lắng tai hiểu lẽ khôn ngoan. Đức khôn ngoan là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật, Luật tồn tại cho đến muôn đời. Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống; còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết” (Br 3: 9; 4: 1).
Nhờ Lề Luật, dân Ít-ra-en được xem là một dân tộc vĩ đại:
“Khi nghe nói về tất cả những chỉ thị đó, họ sẽ bảo rằng: Dân tộc vĩ đại nầy chỉ có thể là một dân khôn ngoan và thông minh”. Sứ mạng phổ quát của dân Ít-ra-en không là nỗi bận lòng ưu tiên của sách Đệ Nhị Luật, sách đặt trọng tâm vào Giao Ước. Vì thế, sứ mạng phổ quát nầy rất hiếm kể ra trong tác phẩm nầy. Chính nhờ tính siêu việt của Lề Luật mà dân tộc nầy trở nên một dân mẫu mực và dân tộc nhỏ bé này được gọi là “một dân tộc vĩ đại”. Chúng ta gặp lại ở đây văn phong nồng nàn và cường điệu, nét đặc trưng của vài đoạn văn Đệ Nhị Luật. Dân Ít-ra-en bé nhỏ so với các đế quốc to lớn chung quanh, mặc dầu thế, được gọi “một dân tộc vĩ đại” vì Lề Luật đảm bảo cho nó tính ưu việt tinh thần trên mọi dân nước.
Nhờ Lề Luật, Thiên Chúa ở gần dân.
“Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người”. Lời khẳng định nầy đáp trả cho câu hỏi đầy xao xuyến của dân Ít-ra-en. Các thần linh ngoại giáo được đúc tượng vẽ hình xem ra ở gần với các tín đồ hơn vị Thiên Chúa phi vật chất, không hình không ảnh của dân Ít-ra-en, đến mức Ngài không cho phép bất cứ hình tượng nào được đúc hoặc vẽ để tôn kính Ngài. Thật ra, Thiên Chúa của Ít-ra-en rất gần với những ai kêu cầu Ngài. Hiệu quả của lời cầu nguyện đó là làm cho Thiên Chúa hiện diện ở trong lòng của mỗi người tín hữu.
Vả lại, trọng tâm của sách Đệ Nhị Luật là ý tưởng về một Thiên Chúa yêu thương dân Ngài và vui thích ở giữa họ, một vị Thiên Chúa mà họ phải “yêu mến hết lòng hết dạ”. Nói cho cùng, luật của Thiên Chúa không áp đặt từ bên ngoài vì “Lời rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành”, lời này chúng ta đọc thấy ở Đnl 30: 14, một bản văn loan báo giáo huấn Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Gc 1: 17-18, 21-22, 27)
Chúng ta bắt đầu đọc thư thánh Gia-cô-bê trong suốt năm Chúa Nhật. Chung chung, tác giả của bức thư này được cho là thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Đức Giê-su. Thánh nhân là người lãnh đạo đầu tiên của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem; vì thế, ngài không phải là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại, ở đầu thư, tác giả không giới thiệu mình là Tông Đồ: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô” (Gc 1: 1). Để phân biệt hai vị thánh tiên khởi có cùng tên Gia-cô-bê nầy, người ta đặt biệt danh cho Gia-cô-bê Tông Đồ là “Gia-cô-bê Tiền”, và Gia-cô-bê anh em họ của Đức Giê-su là “Gia-cô-bê Hậu”. Chính Gia-cô-bê Hậu mà Đức Giê-su đã hiện ra sau khi Ngài sống lại, theo thánh Phao-lô (1Cr 15: 6-7) và thánh nhân đã bị ném đá vào năm 62 do sự xúi dục của vị Thượng Tế đương nhiệm vào thời đó.
Thư được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, sống rải rác trong thế giới Hy lạp-Rô ma (2: 2). Chung chung, người ta nghĩ rằng bức thư được viết vào khoảng giữa năm 58 và 62.
Những lời khuyên trong thư cấu thành nền tảng giáo lý theo cung giọng cổ xưa: không có bất kỳ ám chỉ nào đến việc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và những Ki-tô hữu gốc lương dân. Giáo huấn được định vị vào truyền thống của các sách minh triết Cựu Ước, được sứ điệp Tin Mừng đổi mới và soi sáng.
Chúa Cha, nguồn mạch của mọi ân huệ tốt lành:
Thánh Gia-cô-bê bắt đầu gợi lên nguồn mạch đầu tiên của cuộc sống Ki-tô giáo: mọi ân huệ đều xuất phát từ “Chúa Cha, Đấng tạo dựng muôn tinh tú”, ám chỉ đến công trình tạo dựng: trước hết là ánh sáng, đoạn các vầng sáng lớn nhỏ, trong chương thứ nhất của sách Sáng Thế; nhưng chắc chắn cũng phải được hiểu theo nghĩa của những ánh sáng tâm linh.
“Nơi Người không hề có sự đổi thay, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng”. Những từ ngữ được sử dụng ở đây khiến chúng ta nghĩ đến sự xoay vần của các tinh tú. Người xưa đồng hóa sự bền vững với chân lý, sự chuyển động với sự sai lạc. Tác giả bảo đảm tấm lòng của Thiên Chúa là muôn đời bền vững, không hề “vật đổi sao dời”.
Người Ki-tô hữu được sinh ra từ Thiên Chúa.
“Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thụ tạo của Người”. Các Ki tô hữu được sinh vào cuộc sống đầy ánh sáng nhờ Lời chân lý, ân huệ tuyệt vời nhất của Chúa Cha, tức Chúa Con, là Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế, họ trở thành “của đầu mùa trong các loài thọ tạo của Người”.
Phải chăng tác giả muốn nói rằng các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân muốn ngỏ lời hình thành nên một sự khởi đầu của nhân loại mới? Hay đúng hơn, phải chăng nên hiểu: theo ý muốn của Chúa Cha, những người Ki-tô hữu được xem như là hiến lễ đầu tiên của toàn thể nhân loại? Diễn ngữ “của đầu mùa” gợi lên ý tưởng thánh hiến cho Thiên Chúa.
Đức tin năng động:
Từ lời nhắc nhở đạo lý ngắn gọn về ơn gọi Ki-tô hữu, thánh Gia-cô-bê rút ra những kết luận thực tiển: quan trọng là phải có một đức tin tích cực và, đặc biệt, phải quan tâm đến những người nghèo, hai lời khuyên được lập đi lập lại như điệp khúc xuyên suốt thư nầy.
Thật có ý nghĩa biết bao khi tác giả viện dẫn việc giúp đỡ cô nhi quả phụ như là mẫu gương, đây là lời căn dặn truyền thống Cựu Ước (Xh 22: 21; Đnl 14: 29; 16: 11; 24: 19; Tv 68: 6; 14: 6, 9; Is 1: 7; Gr 7: 6; vân vân). Như vậy, thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh sự liên tục từ luân lý Mô-sê đến luân lý Tin Mừng. Luân lý Tân Ước không hủy bỏ nhưng kiện toàn luân lý Cựu Ước. Đây là sự ghi nhận căn bản của bức thư nầy. Hành xử như vậy chính là “giữ mình khỏi mọi vết nhơ của thế gian”, cách nói nầy vang dội Tin Mừng Mác-cô được trích dẫn hôm nay về sự thanh sạch trong lòng.
TIN MỪNG (Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23)
Chúng ta lại tiếp tục đọc Tin Mừng Mác-cô, bị gián đoạn để nhường chỗ cho diễn từ “Bánh Hằng Sống” được trích từ Tin Mừng Gioan. Thánh Mác-cô tường thuật cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với những người Biệt Phái và một số kinh sư liên quan đến việc tuân giữ truyền thống các tiền nhân.
Sự thanh sạch và ô uế theo Do thái giáo:
Khi quan sát thấy vài môn đệ của Chúa Giê-su không rửa tay trước khi dùng bữa, những người Biệt Phái và kinh sư phàn nàn với Ngài tại sao các môn đệ của Ngài đã không tuân giữ truyền thống tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa.
Vấn đề họ nêu lên ở đây không là việc vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự (Lv 11-15; x. 19: 23-25; 20: 7; Đnl 14: 3-21; 19; 5: 1-4). Khái niệm thanh sạch và ô uế chiếm một chỗ quan trọng trong Do thái giáo. Khác với nhị nguyên thuyết của Hy-lạp, Do thái giáo quan niệm con người là một thực thể thống nhất, vì thế, cái thanh sạch hay ô uế bên ngoài là dấu chỉ cho thấy cái thanh sạch hay ô uế bên trong. Vì thế, chẳng lạ gì khi sách Lê-vi trong bộ Cựu Ước quy định những gì thanh sạch và những gì không thanh sạch.
Thật ra, mọi dân tộc đều đã phân biệt những cử chỉ thanh sạch và không thanh sạch để thiết lập ranh giới giữa phàm tục và thánh thiêng. Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết mật thiết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này, kẻ ấy cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, chúng ta thấy: người ta không thể dụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được đụng chạm đến tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế, cũng như vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen uế về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở về đời sống thông thường (R. de Vaux).
Sau cuộc lưu đày, người Do thái đã mất đi nền độc lập quốc gia nên họ càng gắn bó hơn nữa vào chủ nghĩa đặc thù của dân tộc mình và đã tăng thêm những nghi thức cho phép họ phân biệt mình chừng nào có thể với thế giới ngoại giáo. Qua những nét đặc thù này, họ nhấn mạnh phẩm chất của dân tộc mình là dân được Thiên Chúa chọn và tách riêng khỏi mọi dân tộc khác, vì thế họ không được sống như dân ngoại.
Thánh Mác-cô chen vào cuộc tranh luận lời giải thích dài dòng để giúp người đọc hiểu những tập tục tiền nhân mà người Do thái tuân giữ hằng ngày (7: 3-4). Điều này để lộ căn tính của độc giả, họ không là người Ki-tô hữu gốc Do thái nhưng là người Ki-tô hữu gốc lương dân.
Sự thanh sạch và ô uế theo Chúa Giê-su:
Chẳng cần quanh co, Chúa Giê-su vạch trần thói sống đạo giả hình của họ. Đây là lời tố cáo rất nghiêm khắc. “Giả hình” là từ vựng kịch nghệ được dùng để chỉ những diễn viên mang mặt nạ theo nhân vật mà mình diễn. Giả hình là người mà ngôn hành bất nhất, bộ điệu cử chỉ bên ngoài không đi đôi với tâm tình bên trong, cuộc đời chỉ là trò diễn kịch bên ngoài để che dấu con người thật bên trong.
Vì những đối thủ của Ngài là những người am tường Kinh Thánh, Chúa Giê-su viện dẫn lời ngôn sứ I-sai-a để áp dụng vào lối sống đạo của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư chỉ phụng sự Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không thật lòng với Ngài. Họ tuân giữ các nghi thức thanh tẩy bên ngoài mà bỏ qua các huấn lệnh của Thiên Chúa. Để minh chứng cho lời kết án của mình, Chúa Giê-su liền trưng ra một ví dụ súc tích về các lời khấn hứa (7: 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị lạm dụng nhiều nhất. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám Pha-ri-sêu đã bẻ cong một điểm then chốt của Lời Thiên Chúa: sự giúp đỡ cha mẹ trong Thập Giới để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho Đền Thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng hủy bỏ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giê-su không giới hạn cuộc tranh luận chỉ với những người này, nhưng còn mở rộng cuộc tranh luận tới quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách có hiệu quả hơn: “Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo..”. Trước hết Ngài tuyên bố rằng “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được”: Đức Giê-su xem ra loại bỏ luật Cựu Ước liên quan đến sự ô uế bên ngoài và những quy định về thức ăn đồ uống (x. Lv 11; Đnl 14), luật nầy không chỉ chiếm nhiều phân đoạn của bộ Ngũ Thư nhưng cũng đã trực tiếp làm bận lòng những người trong cuộc sống thường ngày của mình.
Sau khi đã phê phán lối sống đạo giả hình, chỉ biết tuân giữ cái bên ngoài, Chúa Giê-su tập trung vào “cái bên trong”. Chính cái gì xuất phát từ trong lòng con người mới làm cho con người ra ô uế, tức là chính từ tà tâm mà mọi ý đồ đen tối nham hiểm xuất ra. Việc phân biệt con người giữa cái bên ngoài và cái bên trong xem ra rất mới mẽ đối với truyền thống Do thái giáo.
Ý nghĩa của cuộc tranh luận này:
Bản văn này chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt. Điểm nhấn thần học mà tác giả nhắm đến là luật Cựu Ước trong mối tương quan với Đức Giê-su. Ngài loại bỏ truyền thống Pha-ri-sêu chung quanh việc tuân giữ luật nghi thức như rửa tay, lên án việc lấy giáo huấn phàm nhân thay thế huấn lệnh của Thiên Chúa bằng cách sử dụng luật như cách thức trốn tránh bổn phận của mình (thực hành luật co-ban), và Ngài hủy bỏ luật thức ăn của Cựu Ước. Hậu ý của cuộc tranh luận này đòi hỏi Ki-tô học mặc nhiên, Đức Giê-su là người có thẩm quyền giải thích luật Cựu Ước.
Ngoài ra, đoạn văn này đã được tác giả Mác-cô đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giê-su bên đất dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giê-su đã loại bỏ sự phân biệt giữa “thanh sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1: 15).
Đức Giê-su bắt đầu hủy bỏ ranh giới giữa những thức ăn thanh sạch và những thức ăn ô uế, cuộc cách mạng nầy sẽ được các Tông Đồ (x. Cv 10: 10) và thánh Phao-lô (x. 1Cr 6: 12 và 10: 12-20) tiếp tục. Việc mở ra cho thế giới lương dân đòi buộc phải trả bằng giá nầy và còn hơn nữa việc nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su không ngừng công bố.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN-Năm B
“GIỚI RĂN THIÊN CHÚA” VÀ “TRUYỀN THỐNG LOÀI NGƯỜI”- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Từ sạch sẽ của đôi bàn tay đến trong sạch của tâm hồn
Maccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay trong “phần nói về bánh”, giữa hai lần bánh hóa nhiều: lần thứ nhất tại vùng đất Do thái (6,35 và tiếp theo), và lần thứ hai tại vùng đất dân ngoại (8,1-9). Quả thật, đó là cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với những người biệt phái cùng ký lục về “sạch” và “ô uế”, sâu xa hơn, về thái độ kỳ thị của người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho rằng dân ngoại thì “ô uế”, do đó không được đi lại với những người này.
– Tranh luận bắt đầu từ một phản ửng của biệt phái và ký lục từ Giêrusalem đến điều tra “xì căng đan” do các môn đệ Đức Giêsu gây ra: vài người trong các ông “dùng bữa (nghĩa đen: ăn bánh) với đôi bàn tay dơ, nghĩa là không rửa”.
Và Maccô kể cho những người dân ngoại đọc Tin Mừng của ông, một vài tập tục nhằm bảo vệ người Do thái khỏi bị lây nhiễm đúng tập tục ngoại lai và giữ cho dân Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội cũng như tôn giáo. J. Potin viết: “Nhờ cả một mạng lưới những chịt những điều cấm bao trùm từng giây phút, từng tình huống trong đời sống hằng ngày mà dân Do thái vẫn giữ cẩn thận luật về trong sạch (pureté) mà một thành viên của dân Thiên Chúa phải có. Ví dụ, tư tế phải thanh tẩy hằng ngày trước khi bước qua tiền đường vào đền thờ. Những hy lễ đền tội dâng tiến trong các cuộc hành hương ở Giêrusalem, những lễ nghi rửa tay, sự chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện đều nhằm tìm lại sự trong sạch (pureté). Đôi khi sự trong sạch này bị mất đi vì những “sinh hoạt” của cuộc sống hằng ngày như sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc với xác chết hoặc với người ngoại, người cùi, … Theo cách nói của các Rabbi (thầy dạy), luôn có một bức tường vây kín toàn bộ đời sống của người Do thái để bảo vệ họ. (Xem “Đức Giêsu, lịch sử đích thực Centurion, 192-193). J. Potin viết tiếp, những tập tục này tất nhiên đòi phải có: “Lối sống định canh định cư rất khác biệt với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó của Đức Giêsu và các môn đệ. Hơn nữa, một số môn đệ là người bình dân nên dĩ nhiên không được chuẩn bị sẵn sàng để tôn trọng những thói tục của dân thành thị. (sách đã dẫn, tr. 193-194).
– Sau khi trả lời những người biệt phái và ký lục, Đức Giêsu nói với đám đông rồi mới nói với các môn đệ.
+ Chẳng những không tìm cách xin lỗi cho các môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những người chống đối và đánh giá họ là “những kẻ giả hình”, khi dùng những lời tiên tri Isaia để nói về họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phụng Ta thì cũng vô ích; vì giáo lý chúng dạy là những giới luật phàm nhân” (Is. 7,6-7 và 29,13). Kế đó, để tiếp tục phản công, Ngài tố cáo những” truyền thống” do cha ông truyền lại (những “truyền thống” của loài người) thường cho phép thay đổi cả những giới răn của Thiên Chúa. Thậm chí Ngài đưa ra một ví dụ điển hình (sách bài đọc không nói đến) để lột mặt nạ tính giả dối của những kẻ hay soi mói: “Hãy thờ cha kính mẹ”, đó là giới luật tuyệt đối Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng Môisen; tuy nhiên, người biệt phái đoan chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải mình cho Ngân khố đền thờ thì được miễn nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái gì đã hứa cho Thiên Chúa thì không thể cho người khác được nữa!) J. Potin giải thích: “Đó rõ ràng là cách thay thế giá trị nền tảng của Thiên Chúa bằng sự thánh hiến tiền bạc giả danh tôn giáo. Đây là một trường hợp quá đáng nên chính những Kitô Do thái cũng chống lại vì họ rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm mọi người cảm nhận rõ ràng do đâu những truyền thống phát xuất từ cơ chế tôn giáo có thể làm biến chất chính căn bản nhất của nó và thậm chí cả hướng đi trong sáng nhất của nó nữa”. (sách đã dẫn, tr.194)
+ Rồi Đức Giêsu quay sang nói với “đám đông”. Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch sạch, ô uế theo nghi lễ, Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý, nơi xuất phát mọi kết định của con người: đó là “lòng” họ. Chỉ có một sự ô uế thật sự mà con người mắc phải khi tự do quyết định: “Chính cái từ con người xuất ra, là cái làm con người ra ô uế”.
Quesnel khẳng định: “Chắc chắn đó là bài học chủ yếu của đoạn Tin Mừng này không có gì ở ngoài con người có thể làm họ trở nên dơ. Về điều này, Maccô là một nhà cách mạng đối với người Do thái thời ông; ông tỏ rõ rằng những người tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội không còn lệ thuộc vào sự tuân giữ những luật lệ của Israel về sạch, ô uế nữa: đụng một xác chết hay một người cùi ăn uống với người ngoại, uống máu những con vật, đối với người Do thái, tất cả những hành vi này gây ra sự ô uế về lễ nghi, nhưng đối với người tin vào Đức Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào để tách rời họ khỏi Thiên Chúa”. (Đọc Tin Mừng Thánh Máccô thế nào?, Seuil, p. 125)
+ Nhưng điều Đức Giêsu vừa nói với đám đông thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các môn đệ “trong nhà”. Sau khi đã kể ra một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài kết luận: “Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm con người ra ô uế”.
Từ phân biệt đến cởi mở và thông hiệp:
Chính Maccô giải thích: “Như vậy Đức Giêsu tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch”. Câu này (không có trong sách bài đọc) chắc chắn gây nên một cú sốc: “Ngay lập tức, Đức Giêsu tuyên bố những truyền thống nhằm chia xã hội thành hai khối: người tốt và kẻ xấu theo cách của đạo manichéisme (đạo thiện ác) là những truyền thống lạc hậu. Theo kiểu phân chia này, một bên là những người sạch, tức người biệt phái (nghĩa từ này là “những người được tách biệt ra”) và bên kia là những người ô uế, nên tránh, tức những người tội lỗi. Như vậy, Đức Giêsu vừa thiết lập một xã hội mới. Phần Thiên Chúa, người thông hiệp với tất cả những ai là nạn nhân của sự phân biệt xã hội và tôn giáo do chủ trương của phái ‘những người sạch và khắc nghiệt’ tức những người biệt phái. Ngài ăn uống với những kẻ ô uế, “những kẻ bị loại trừ” (người thu thuế, đĩ điếm, lính Rôma, v.v.) Chính điều mới mẻ này sẽ xô đổ những ngăn cách tai hại vào thời Đức Giêsu. (J. Hervieux, “Tin Mừng thánh Maccô”, Centurion, tr. 103)
– Một lời nói rõ ràng và có sức giải phóng dành cho những người đọc Tin Mừng Maccô ở một thời đại mà Giáo hội sơ khai đang trải qua những căng thẳng và xung đột giữa những Kitô hữu gốc Do thái và Dân ngoại. J. Potin nhận xét thêm: “Điều phê phán trên chứng tỏ rằng việc áp dụng giáo huấn này không dễ dàng, như sách Tông đồ Công vụ đã chứng minh: Phêrô đã phản đối: Trong đời tôi, không bao giờ tôi ăn những gì nhơ nhớp và ô uế, khi trong thấy một rổ những loài vật thiên thần mời ông ăn trong giấc mơ (10,14). Nhưng vì người Do thái và dân ngoại cùng hiện diện đồng bàn trong cộng đoàn Kitô hữu nên bắt buộc phải bãi bỏ những điều cấm về ẩm thực dành riêng cho người Do thái một khi chúng không có chiều kích luân lý”. (Sách đã dẫn, tr. 195–196) Qua việc công tố về sạch và ô uế, Đức Giêsu mở ra con đường của tự do Kitô giáo.
BÀI ĐỌC THÊM
Giới răn của Thiên Chúa và tập tục phàm nhân.
Một cộng đoàn Kitô trẻ trung gặp khó khăn trong đời sống trước những luật lệ phải bỏ và phải duy trì. Không phải chỉ thời Cựu ước và trong đạo Do thái người ta mới bị cám dỗ muốn ẩn trốn sau những tập tục và giới luật để được an tâm. Cũng không phải chỉ ở thời đại chúng ta Kitô giáo mới biết đến những cám dỗ như thế. Chính Giáo hội sơ khai cũng đã phải trải qua những cám dỗ này.
Thánh Phaolô chứng minh cho chúng ta thấy những luật lệ Do thái và sự trong sạch nệ luật gây ra những thái độ cần phải chỉnh đốn. Sách Tông đồ Công vụ, thư gởi tín hữu Galata, thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, thư gởi tín hữu Rôma đều lần lượt ám chỉ đến vấn đề này.
Thư gởi tín hữu Galata cho chúng ta thấy chính Phêrô cũng do dự trước tình hình nghiêm trọng do phản ứng mạnh của một số người. Ông dùng bữa chung với người ngoại giáo, nhưng khi một số người thân cận của Giacôbê từ Giêrusalem đến, ông lẩn tránh mà không dám tiếp xúc với người ngoại giáo nữa vì sợ những người đã cắt bì. Thấy vậy, một số người Do thái khác cũng bắt chước ông. Thánh Phaolô đã kịch liệt đả kích thái độ “ỡm ờ” này (Galata 2,11-14)
Chương 10 trong Tông đồ công vụ thuật lại: trong lúc Phêrô phải đương đầu với những khó khăn này thì một thị kiến đã dạy ông thái độ cần có và ông đã vào nhà viên bách quan dù theo luật như chính ông đã biết: người Do thái bị cấm vào nhà người ngoại giáo.
Một vấn đề khác, đó là việc cắt bì. Một số muốn dân ngoại khi trở lại phải chịu cắt bì (Ac 15). Chính Phêrô, thủ lãnh của Giáo hội, cũng cảm thấy khó mà quyết định về những vấn đề này; ông đã can đảm giải quyết nó nhưng không phải là không phân vân.
Thánh Phaolô cảm thấy cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng thứ yếu của những tập tục về thức ăn, nên ông viết: “ Thức ăn dành cho bụng và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ hủy diệt cả cái này lẫn cái kia”. (1 Cor. 6,13) Trong thư gởi tín hữu Rôma, về vấn đề này, ông đưa ra một phán đoán rất quân bình: “ Nước Thiên Chúa không phải chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần”. (14,17)
Tuy nhiên, bằng cách khích lệ là cần phải làm đúng lúc vì “những người yếu đuối”, Phaolô nói tiếp: “Đừng vì một thức ăn mà phá hủy công trình của Thiên Chúa” (14,20) Tất nhiên mọi thức ăn đều sạch, nhưng chúng sẽ trở nên sự dữ đối với người ăn chúng mà gây gương mù. Những sự kiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của thánh Máccô dành cho các tín hữu của ông”
Truyền thống là gì?
“Những người biệt phái trách các môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn”, nghĩa là không trung thành với truyền thống. Nhưng truyền thống là gì?
Trong đạo Do thái, luật bắt buộc các tư tế phải rửa tay trước khi cử hành phụng vụ (Xh 30,17-21). Các Rabbi biến luật này thành phức tạp hơn khi thêm vào đó những chi tiết và những giải thích cho rõ ràng hơn.
Đàng khác, họ áp đặt lễ nghi này cho mọi người Do thái trước khi họ dùng bữa, “lấy cớ là tất cả các bữa ăn đều làm một hành vi tôn giáo và toàn thể Dân Israel là dân tư tế”. Rồi, dựa vào một tiến trình mà ai cũng biết để biện minh cho những luật lệ này, họ nói rằng chúng có nguồn gốc từ thời ông Môisen, người đã giải phóng dân tộc. Nên đó là “Truyền thống”.
Nhằm phá vỡ tính máy móc của sự khép kín này, cũng như nhằm tháo bỏ nó khỏi chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa nệ truyền thống khởi đi từ sự đối lập giữa sạch và ô uế, cái bên trong và ăn ngoài, Đức Giêsu lập luận: “Không có gì từ bên ngoài trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; chúng chính cái từ con người xuất ra mới là cái làm con người ra ô uế”.
Khi bên ngoài lấn át bên trong, dáng vẻ bề ngoài lấn át con tim, lễ nghi lấn át ý nghĩa, trình diễn ngoạn mục lấn át nội tâm, tỉ lệ lấn át tinh thần; thì đó sẽ là điều đồi bại. Bản văn chính thức chúng ta đọc trong chúa nhật này đã bỏ đi một câu tố cáo sống sượng sự phản bội dưới vỏ bọc của một truyền thống sai lạc: “Bất cứ cái gì lừ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm con người ra ô uế được, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta rồi thải ra ngoài”.
Chỉ có một truyền thống đích thực, đó là dòng chảy từ con tim của Thiên Chúa đến con tim của con người. Nhưng để dòng chảy lưu thông thông suốt, đương nhiên cần có những ống dẫn. Những ống này càng mịn màng tinh tế càng ít cản trở dòng chảy”.
Đức Giêsu giải phóng chúng ta
“Đức Giêsu là con người tự do. Ngài giải phóng. Ngài là người con say mê tìm vinh quang của Cha mình. Ngài bảo vệ các môn đệ chống lại các cuộc tấn công của những kẻ nệ luật; Ngài bảo vệ giới luật của Thiên Chúa không để chúng bị thay thế bởi những luật lệ loài người. Đức Giêsu mới gọi chúng ta đi đến tận “tâm điểm”, tức tận trung tâm của con người mà từ đó phát xuất ra những gì là sạch và ô uế. Ngài kêu mời chúng ta phải lãnh trách nhiệm của chính mình. Ngài cũng kêu gọi hãy có sự trong sạch của tâm hồn, chứ không phải của đôi bàn tay. Chính khi làm thế chúng ta ở trong chân lý, không giả hình, không biện minh vụn vặt cho những chọn lựa nhỏ nhặt của mình, không kết án nhân danh những luật lệ chính chúng ta nặn ra. Đức Giêsu bắt người ta vừa phải đối diện với chính mình, với cái “tâm” của mình, vừa phải đối diện với “giới luật của Thiên Chúa”. Đó chính là hai tiêu chuẩn để đo lường sự chính trực. Như vậy, Đức Giêsu đưa chúng ta trở về với điều cốt yếu nhất và giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ của những điều vụn vặt, những hình thức bên ngoài…”.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TRUYỀN THỐNG CỦA BIỆT PHÁI- Chú giải mục vụ của Jaques Hervieux
Ở đây lại xẩy ra một cuộc khẩu chiến mới như vẫn từng xảy ra giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái nhiệt thành nhất thời đó tức nhóm biệt phái và luật sĩ (c.1). Họ bắt bẻ Chúa Giêsu về một điều xem ra nhỏ nhặt liên quan tới hạnh kiểm các môn đệ Ngài: đó là những môn đệ này dùng bữa với bàn tay “dơ bẩn”, tức là không rửa trước khi dùng bữa (c.2). vì các độc giả Rôma của ông không hiểu về tập tục Do Thái nên Maccô buộc lòng phải cắt nghĩa dài dòng tại sao sự việc ấy lại phát sinh ra vấn đề (c.3-4). Việc dân Do Thái giữ đủ thứ lề luật tỉ mỉ liên quan đến bữa ăn có nguồn gốc từ thời luật Môsê. Để giữ cho dân riêng Chúa được tinh tuyền về mặt xã hội và tôn giáo, luật Môsê cấm họ không được đụng chạm tới bất cứ người hay thực phẩm nào bị tuyên bố là “ô uế” (Lv 11, 16). Trong đời sống thường nhật, mỗi khi từ nơi công cộng hoặc phố chợ trở về, dân Israel luôn tự cảm thấy mình “ô uế” xét về mặt nghi thức: bởi vì họ đã chẳng đi kề cạnh đám người tội lỗi và đám dân ngoại sao? (chẳng hạn lũ thương gia và những gã lính Rôma xâm lược). Từ đó phát sinh ra đủ thứ nghi thức tẩy rửa trước khi ăn, và câu hỏi họ đưa ra cật vấn Chúa Giêsu có liên quan đến việc các bạn hữu Ngài lơ là không tuân thủ các quy luật này (c.5).
Chẳng cần quanh co, lập tức Chúa Giêsu tuyên bố ngay thói giả dối của họ (c.6-7). Vì đang nói đám chuyên gia Kinh Thánh nên Chúa Giêsu liền nại đến Kinh Thánh (ở đây Ngài trích sách Isaia 29,13), vị tiên tri sống vào thế kỷ thứ VIII trước Chúa Kitô, Ôsê cũng đã từng kết tội đám đồng hương của ông về thứ thờ phụng mà “chẳng có hồn” này (Hs 5,21-25). Chúa Giêsu không ngần ngại lập lại lời phán xét gay gắt đó và Ngài kết luận: các ông lấy truyền thống hoàn toàn mang tính cách nhân loại để thay thế cho Lời Thiên Chúa! (c.8). Lời tố cáo quả rất nghiêm trọng, nặng nề. Biết rõ một số luật Môsê đang được các đạo sĩ Do Thái tranh luận, Chúa Giêsu liền trưng ra một ví dụ súc tích: ví dụ các lời khấn hứa (c. 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị nhiều lạm dụng. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám biệt phái đã bẻ quẹo một điểm then chốt của Lời Chúa (sự giúp đỡ cha mẹ theo Thập giới (Xh 20,12) để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho đền thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng tiêu huỷ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã mở rộng cuộc tranh luận với đám cử toạ hạn hẹp này ra tới quảng đại quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách kết quả hơn (c.14-15). Ngài đưa ra một dụ ngôn nhỏ mang dáng vẻ nhiệm mầu. Đám đông có thể hiểu nổi dụ ngôn này không? Như vẫn thường thấy nơi Phúc Âm Maccô (4,33-34), vị Tôn Sư thường cắt nghĩa “tiếng” cho các môn đệ Ngài về các dụ ngôn Ngài nêu ra (c.17. trước hết Ngài khiển trách họ không chịu động não cố hiểu được đôi điều về lời giảng của Ngài (c.18a). sau đó Ngài ban cho họ chìa khoá của vấn nạn (c.18b- 19a). Làm dơ bẩn người ta không phải là những thức ăn họ ăn và bởi vì cuối cùng bộ tiêu hóa cũng sẽ thải ra ngoài hết. Không! Làm dơ bẩn người ta chính là những tư tưởng phát xuất từ trái tim họ. Chính từ trái tim mà mọi ý đồ nham hiểm xuất ra (c.20-23). Trong Kinh Thánh trái tim là chốn cư ngụ của tư tưởng cũng như của tình cảm. Từ đó phát sinh những hư hỏng về mặt luân lý. Bản liệt kê dài ở đây tương xứng với sổ kê đủ thứ tính hư tật xấu mà ta thường thấy nơi các nhà luân lý đương thời (x. Gl 5,19-21).
Giống như đám đông và sau đó là các môn đệ, chúng ta hẳn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đã đi lệch ra khỏi điểm xung đột lúc ban đầu giữa Ngài và đám biệt phái. Không phải thế đâu. Một câu vắn gọn của Maccô nêu bật được trọn vẹn bài học chủ chốt trong các lời nói của Chúa Giêsu (c.19b). Trước hết, điểm khác biệt được lưu tâm là những quy tắc ăn uống thường được các người Do Thái nhiệt thành tuân giữ. Có cả hàng đống thức ăn bị coi là “ô uế” không được dùng (x.Lv 11,1-30). Ở đây, Chúa Giêsu trực tiếp công bố những quy luật ăn uống của truyền thống này là lỗi thời bởi vì chúng phân hoá xã hội thành hai nhóm đối kháng: kẻ tốt và kẻ xấu. Một bên là những kẻ “tinh tuyền”, tức đám biệt phái (có nghĩa là nhóm tách biệt) và người tội lỗi. Chúa Giêsu đến để thiết lập một xã hội hòa đồng. Đứng về phía Thiên Chúa, Ngài hiệp thông với tất cả những nạn nhân của sự kỳ thị xã hội và tôn giáo do bè cánh biệt phái, những người “tinh tuyền và cứng cỏi” gây ra. Ngài dùng bữa với những kẻ ô uế, “những kẻ bị khai trừ” (đám thu thuế, gái điếm, lính Rôma v.v…). Đây quả là sự đổi mới phá đổ những bức vách ngăn đáng trách của thời đại.
Maccô đã dùng nhiều lời để tường thuật sự phản kháng của Chúa Giêsu trước những công kích của đám biệt phái. Sở dĩ thế là vì Kitô giáo thời sơ khai phải va chạm mạnh với vấn đề tiếp đón dân ngoại trở lại đạo. Tập tục Do Thái trong việc ăn uống, những nghi thức thanh tẩy rườm rà đã ngăn cản “khách lạ” lui tới, mặc dù họ đã trở nên huynh đệ trong đức tin. Chúng ta đã chứng kiến rõ sự khó khăn của các tương giao giữa Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại trong Công vụ sứ đồ (10,1-11.18). Ở đó người ta thấy ngay chính tông đồ trưởng Phêrô cũng còn bị nô lệ cho các “cấm kỵ” trong vấn đề ăn uống theo luật Do Thái khi ông gặp gỡ Cornêliô, một người ngoại đạo. Rõ ràng các Kitô hữu gốc Do Thái phải tốn khá nhiều tời gian mới giải thoát mình ra khỏi nhưng thành kiến chủng tộc và tôn giáo là những thứ ngăn cản không cho họ thoải mái khi đồng bàn với anh em gốc dân ngoại và điều này làm cho sứ vụ của Giáo Hội sơ khai bị bế tắc. Cộng đoàn Kitô giáo của Maccô chắc chắn phải đương đầu với những vấn đề tương tự và họ nhớ lại vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho các người biệt phái. Trình thuật này thiết lập cho họ sự thực hành về “bàn ăn mở rộng” rất thường bị chỉ trích. Và có mặt trong “Chương nói về bánh” này (6,30 – 8,21) cũng như sẽ không ngạc nhiên khi thấy xuất hiện vào lúc Chúa Giêsu sắp sửa hướng các môn đệ nhìn về sứ mệnh khẩn cấp là ra đi truyền giáo cho dân ngoại (xem trình thuật kế tiếp 7,24-30).
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LỀ LUẬT VÀ TẤM LÒNG- Lm. Carolo Hồ Bặc Xái
Sợi chỉ đỏ :
– Bài đọc I (Đnl 4,1-2.6-8) : Môsê khuyên dân do thái hãy đem lề luật đã học ra thực hành.
– Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23) : Đức Giêsu trách những người biệt phái và kinh sư chỉ lo giữ những khoản luật quy định về sự trong sách bề ngoài mà không lo giữ tâm hồn cho trong sạch.
– Bài đọc II (Gc 1,17-18.21b-22.27) : Đối với Lời Chúa, đừng nghe suông mà hãy thực hành.
DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Ngày xưa Đức Giêsu đã dùng lời ngôn sứ Isaia để trách dân do thái rằng : “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Phải chăng chúng ta cũng đáng bị trách như thế ? Mỗi ngày Chúa nhật, chúng ta đến đây đọc kinh và rước lễ. Nhưng đó chỉ mới là bằng môi bằng miệng thôi. Tôn kính Chúa bằng một tấm lòng chân thành còn đòi buộc chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa, kết hợp với Mình Thánh Chúa và sống theo ý Chúa nữa. Chúng ta hãy dâng Thánh lễ này với cả tấm lòng chân thành yêu kính như vậy.
GỢI Ý SÁM HỐI
– Nhiều lần chúng ta dự thánh lễ nhưng lòng trí không ở với Chúa.
– Chúng ta nghe Lời Chúa rất nhiều nhưng chẳng thực hành bao nhiêu.
– Chúng ta cố gắng giữ luật vì sợ phạm tội chứ không vì lòng yêu mến Chúa.
LỜI CHÚA
Bài đọc I (Đnl 4,1-2.6-8)
Dân do thái rất hãnh diện vì có Thiên Chúa làm Chúa của họ và vì được Thiên Chúa ban Luật cho họ : “Có dân tộc vĩ đại nào được Thần minh ở gần như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người ? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh như tất cả Lề luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em ?”
Nhưng Ông Môsê lưu ý : (1) Không được thêm cũng không được bớt gì vào những Lề luật của Chúa ; (2) Phải đem những lề luật đó ra thực hành.
Đáp ca (Tv 14)
Thánh vịnh này ca tụng những người luôn cố gắng sống công chính theo chỉ dẫn của lề luật.
Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23)
Đức Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
– Họ bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân chén dĩa…
– Đức Giêsu nói đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
– Ngài nhận xét đạo đức của họ chỉ là đạo đức giả : “Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
– Ngài còn kết án họ lấy tập tục của loài người để thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình : Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho Đền thờ, biệt phái và kinh sư đã dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cha mẹ để dâng cho Đền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Quả thật đây là một cách bóp méo luật Chúa.
Bài đọc II (Gc 1,17-18.21b-22.27)
Thánh Giacôbê bảo rằng được đón nhận Lời Chúa quả là một ân huệ to lớn. Nhưng Ngài khuyên tín hữu “đừng nghe suông mà phải đem ra thực hành”. Cụ thể là hãy “thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian”.
GỢI Ý GIẢNG
* 1. Chớ giả hình
Năm 587, trước khi Chúa ra đời, thủ đô Giêrusalem bị thất thủ, nước Do Thái sụp đổ, người Do thái bị bắt đi đày bên nước Babylon. Sống bên xứ lạ quê người, đền thờ không còn, tế tự không còn, niềm tin của người Do thái yếu kém đi. Hơn nữa sống giữa người ngoại, nhiều người Do thái đã dần dà bỏ đạo Chúa và theo các bụt thần. Trước hoàn cảnh đó, các luật sĩ Do thái đã hết sức cứu vãn niềm tin của dân mình bằng cách đặt ra những luật lệ nhằm bảo vệ đức tin cho tinh tuyền. Vì thế, có những khoản luật cấm tiếp xúc với kẻ tội lội, với những gì gọi là ô uế xấu xa.
Thế nhưng sau khi lưu đày trở về, các luật sĩ đã đi quá trớn, đưa ra những khoản luật rất là tỉ mỉ. Thí dụ :
. Một người đàn ông bị đi lính thì bị coi là ô uế. Tất cả mùng mền chiếu gối của họ đều bị coi là dơ. Ai đụng tới cũng bị dơ và phải giặt quần áo của mình, và cho dù đã tắm giặt như vậy vẫn còn bị coi là dơ cho đến chiều tối. Xe họ ngồi cũng bị coi là dơ, phải rửa cho sạch.
. Đàn bà tới kỳ xuất huyết thì bị coi là ô uế suốt 7 ngày. Ai đụng tới họ cũng bị lây ô uế, có tắm giặt cũng còn ô uế tới chiều.
. Nếu kẻ bị coi là ô uế hay lây ô uế khi tắm giặt cũng phải theo những luật tỉ mỉ : lấy nước thì lấy bằng bình đồng, bình sành hay bình gỗ chứ không được dùng bằng thứ bình nào khác. Đụng tới một người ô uế thì phải rửa từ khuỷu tay trở xuống, và phải rửa 2 lần : 1 lần vì tay bẩn, lần thứ hai để tẩy đợt nước thứ nhất đã bị bẩn khi dính vào tay bẩn của mình.
. Trước khi ăn thì phải rửa tay cho khỏi những ô uế mà có thể vì vô tình mình đã chạm phải. Người ta kể rằng có 1 luật sĩ tên là Aqiba đã thà chết khát trong tù còn hơn vi phạm luật này : trong tù nước rất ít, nhưng ông cũng dùng để rửa tay trước khi ăn dù rửa xong thì không còn nước để uống.
Đi tới chỗ quá trớn đó thì trở thành thói vụ hình thức. Và nếu chỉ coi trọng hình thức mà quên phần nội tâm thì trở thành chứng giả hình. Vụ hình thức và giả hình, đó là 2 điều mà Đức Giêsu cực lực công kích trong bài Tin mừng hôm nay.
Nhưng dù sao giữ hình thức cũng dễ hơn giữ nội tâm, cho nên những người cho nên không riêng gì người Do thái thời xưa, mà cả chúng ta ngày nay cũng dễ mắc thói vụ hình thức và giả hình.
. Thiếu gì người thích làm đám cưới linh đình, lễ cưới có nhiều cha đồng tế nhưng chẳng lo phần giáo lý cho đôi tân hôn bao nhiêu.
. Thiếu gì người cha mẹ già còn sống thì bỏ bê, nói nặng nói nhẹ. Chỉ khi cha mẹ nằm xuống mới lo làm tang lễ um sùm, than khóc bù lu bù loa..
. Thiếu gì người không khuyến khích con cái đi học giáo lý, nhưng tới ngày Rước lễ, Thêm Sức thì tới xin xỏ, làm áp lực cho con mình cũng có mặt trong ngày lễ trọng đại ấy.
. Và thiếu gì người hết sức sùng kính ảnh thánh này, tượng thánh nọ, mà khi đối xử với người khác thì chẳng thấy có chút gì giống tinh thần bác ái vị tha của các vị thánh đó.
Với những kẻ giả hình thời trước cũng như thời nay, Lời Đức Giêsu trách sứ vẫn luôn luôn nghiêm nhặt : “Hỡi bọn giả hình, Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi rằng : dân này kính ta bằng môi miệng, còn lòng nó thì ở cách xa ta, vì nói sùng kính ta cách giả dối”.
Nhưng thực ra, chúng ta không muốn giả hình mà chỉ vì có bề ngoài thì dễ hơn có bề trong. Bề ngoài và bề trong đều quan trọng, nhưng bề trong quan trọng hơn. Giữ đạo mà không thật lòng mến Chúa yêu người thì vô ích, bởi vì công phúc không phải từ bên ngoài mà tự trong lòng mà ra, không phải do đọc kinh dự lễ mà có nhưng do tâm tình sốt sắng khi đọc kinh dự lễ.
* 2. Bàn về luật lệ
Năm 336 trước Chúa Giáng Sinh, nước Hy Lạp nổi lên một vị anh hùng, đó là Alexandre đại đế. Mới có 20 tuổi, ông đã chứng tỏ tài thao lược của mình khi nổi lên bẻ gãy ách đô hộ của đế quốc Ba Tư lúc đó đang đè nặng trên nước Hy Lạp. Chẳng những thế, ông còn quật ngược lại tình hình, biến Ba Tư trở thành một nước chư hầu và đưa Hy Lạp lên ngôi bá chủ. Ông đánh đâu thắng đó, trăm trận trăm thắng, xâm chiếm nhiều nước khác, đế quốc Hy lạp trải rộng cho tới Ấn Độ,. Nước Do thái bé nhỏ cũng rơi vào vòng thống trị của đế quốc Hy Lạp. Loé mắt trước nền văn minh Hy Lạp, nhiều người Do Thái đua nhau học đòi kiểu sống Hy Lạp : nói tiếng Hy Lạp, mặc theo kiểu Hy lạp, ăn uống theo kiểu Hy Lạp và thờ các thần Hy Lạp. Mặt khác các quan thái thú Hy Lạp dùng sức mạnh để buộc người Do thái bỏ đạo Chúa để thờ đạo Hy Lạp, họ bắt đầu ăn thịt heo và đốt nhang trước các tượng thần. Ai không làm theo thì bị xử tử. Văn hóa dân tộc và đức tin vào Chúa có nguy cơ bị huỷ diệt. Vì thế, những nhà lãnh đạo tinh thần của dân đã hết sức cố gắng giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân. Họ đặt ra những khoản luật buộc dân giữ mình khỏi bị lây nhiễm nọc độc của ngoại bang, trong đó có những luật về ăn uống, về cách giữ các lễ nghi. Từ đó dấy lên một phong trào đề cao lề luật.
Nhưng phong trào này càng ngày càng đi tới chỗ quá trớn. Tới thời CG thì luật lệ đã quá sức tỉ mỉ, nhất là luật về sạch dơ : đi đâu về trước khi vào nhà cũng đều phải rửa tay rửa chân, trước khi ăn uống cũng phải rửa tay chân, và những chén dĩa ly tách dùng để ăn uống cũng phải rửa nhiều lần trong ngày. Điều đáng ta chú ý là những luật này không phải để giữ vệ sinh hay bảo vệ sức khoẻ, mà chỉ để giữ nghi thức thôi, cho nên dù không dơ nhưng cũng phải tắm rửa, ai không làm vậy thì bị coi là người tội lỗi, bị người khác chỉ trích và kết án nặng nề.
Như một lần kia, các môn đệ CG đã ăn mà không rửa tay trước. Lập tức họ bị những luật sĩ và biệt phái chỉ trích. Nhân dịp đó CG đã lên tiếng vừa để bênh vực môn đệ mình, vừa để nói lên quan điểm của Chúa về vấn đề lề luật cách chung và cách riêng về vấn đề sạch dơ. Đại khái CG cho rằng luật lệ chỉ là hình thức để diễn tả tấm lòng. Tấm lòng mới quan trọng, còn hình thức không quan trọng. Bởi vì dơ hay sạch là do tự tấm lòng bên trong. Nếu lòng dạ dơ dấy xấu xa thì cho dù hình thức bên ngoài có đẹp đẽ mấy thì cũng chỉ là vô ích, là giả hình.
Đức Giêsu đã nói rất đúng. Luật lệ giống như cái khuôn khổ, giống như những bức tường, những hàng rào, như sợi dây cương để lèo lái con ngựa chỉ được chạy một hướng, như chiếc đường rày không cho chiếc xe lửa chạy lệch hướng. Thành ra luật lệ có tính cách gò bó, ép buộc. Còn tấm lòng thì dự do và thoải mái, cũng giống như tình cảm người ta thì không có hàng rào, không có bánh lái. Dĩ nhiên luật lệ cũng cần thiết và hữu ích để gìn giữ không cho tấm lòng đi lệch lạc. Nhưng coi luật trọng hơn tấm lòng, dùng luật lệ để bóp chết tấm lòng, hoặc chỉ chú ý đến luật lệ mà bỏ hẳn tấm lòng thì quả là một sai lầm to lớn.
Sai lầm đó, các luật sĩ và biệt phái thời CG đã phạm. Và ngày nay nhiều người vẫn phạm. Thí dụ như mới đây thôi tôi gặp một người rất lâu không thấy đi xưng tội, hỏi tại sao thì người ấy đáp : “Có chứ con xưng tội một năm một lần, đúng luật mà”
Khi đã có tấm lòng thì có thể chẳng cần lề luật. Cũng như cha mẹ đối với con cái. Tình thương của cha mẹ lúc nào cũng bao la lai láng, vì thế cha mẹ đã lo cho con ăn, lo cho con mặc, chăm sóc con cái mọi chuyện…. chỉ do sự thúc đẩy của tình thương chứ không do một luật lệ nào bắt buộc. Đứa con nào biết thương cha mẹ thực lòng thì cũng tận tuỵ phụng dưỡng cha mẹ như vậy. Nhưng có một số gia đình mà con cái không còn tấm lòng với cha mẹ nên khi cha mẹ già yếu phải đề ra những quy luật giao cho đứa này phải lo gạo, đứa kia lo tiền chợ, đứa khác lo tiền điện nước trong nhà. Khi đã không có tình nghĩa thì người ta phải xài tới luật lệ. Nhưng mà luật lệ cũng không bảo đảm làm cho tình nghĩa sống lại, chúng chỉ là một mớ hình thức lỏng lẽo, héo khô. Như gia đình mà tôi đang nói, các đứa con tuy giữ đúng quy định phân chia trách nhiệm như thế, nhưng khi cha mẹ đau yếu, cha mẹ cần tiền để đi dự một đám cưới, cha mẹ có khách tới ở nhà… thì không đứa nào chịu bỏ tiền ra đưa cho cha mẹ, bởi vì những khoản đó không có kể trong quy luật gia đình. Những đứa con ấy giữ luật rất đúng nhưng đâu phải là những đứa con hiếu thảo.
Nếu chúng ta là những tín hữu đã tuân giữ luật Chúa và luật Giáo Hội một cách chu đáo thì chúng ta cũng không được tự mãn cho rằng mình đã làm đầy đủ tất cả. Bởi vì có thể chỉ là đầy đủ về hình thức thôi, chứ chưa hẳn là đầy đủ tình nghĩa yêu mến kính thờ Chúa. Chúng ta cũng nên áp dụng nhận thức trên vào một việc cụ thể là việc đọc kinh và dự lễ.
. Luật dạy chúng ta đọc kinh sáng tối mỗi ngày : đọc những kinh gì, và đọc lúc nào, đó là hình thức. Người chỉ để ý tới hình thức thì đọc thật nhanh, đọc cho có cho rồi. Ngày nào có cớ để không đọc thì chộp ngay lấy cớ đó để bỏ. Nhưng ta phải biết tinh thần của luật ấy là gì ? Đó là muốn chúng ta tỏ lòng kính mến Chúa mỗi ngày vào khoảng khắc đầu tiên và cuối cùng trong ngày. Ai có tinh thần đó thì không nhất thiết là phải đọc những kinh gì, đọc bao lâu. Mỗi ngày khi vừa thức dậy và khi sắp đi ngủ họ nâng tâm hồn lên tới Chúa, có thể họ đọc kinh mà có khi cũng không đọc kinh, chỉ nói với Chúa đôi lời, những lời đơn sơ, thực tình nhưng rất hiếu thảo.
. Luật buộc đi lễ Ngày Chúa Nhật : Đi lễ cũng chỉ là hình thức. Còn tinh thần chính là dành ra một ngày trong tuần để đặc biệt cho Chúa, lo việc thờ phượng Chúa. Người nào đi lễ mà chỉ đứng ở ngoài nhà thờ, hay đến thì trễ mà về thì sớm thì đúng là người chỉ chú ý đến hình thức. Kẻ coi trọng tinh thần ngày Chúa Nhật nếu vì một cản trở nào đó mà không đến nhà thờ được thì cũng biết cách để thánh hóa ngày Chúa Nhật, như cầu nguyện riêng ở nhà, như làm một vài việc lành dâng lên Chúa trong ngày đó.
Xin Chúa giúp chúng ta kính mến Chúa thực sự trong lòng chứ không phải chỉ bằng những hình thức giữ lề luật bên ngoài, để chúng ta không bị Chúa trách như đã trách các biệt phái và luật sĩ ngày xưa “Dân này kính ta ngoài môi miệng, mà lòng nó ở cách xa ta”.
* 3. Đức Kitô và KARMELIUK
Có một cuốn phim truyền hình mang tên Karmeliuk,, kể chuyện một vị anh hùng dân tộc Nga : khi ấy nước Nga còn sống trong chế độ nông nô, một số ít phú nông địa chủ chiếm hầu hết đất đai, còn đa số dân chúng không có đất, thì phải đi làm nô lệ cho các phú nông địa chủ trên, đời sống của họ hết sức cơ cực, họ bị bóc lột, đàn áp dã man. Lúc bấy giờ có một chàng thanh niên có tâm huyết tên là Karmeliuk. Chàng cũng là một nông nô, nhưng không chịu nỗi cảnh đàn áp, bất công đó nên đã trốn vào bưng biền để cùng với một số bạn tâm huyết khác nổi loạn. Họ tổ chức đánh cướp nhà các phú nông địa chủ và lấy tài sản của chúng đem chia cho các người nghèo. Danh tiếng Karmeliuk loan truyền khắp nước. Có những bài thơ, những bài hát được lưu truyền trong dân gian để ca ngợi chàng. Chàng Karmeliuk trên những dặm đường gió bụi cũng đã gặp gỡ nhiều thanh niên. Lúc đầu họ không biết chàng. Nhưng khi họ hỏi “Anh là ai ?” và Karmeliuk trả lời “Tôi là Karmeliuk”, thì những thanh niên ấy vô cùng sung sướng, bỏ lại sau lưng tất cả để theo chàng. Họ hãnh diện vì đã đi theo một vị anh hùng dân tộc.
Bài Tin mừng hôm nay, nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ thời đại, thì cũng tương tự như câu chuyện trên. Thuở bấy giờ dân chúng đang sống khổ sở, không phải họ chỉ mang một ách nô lệ, mà tới hai cái ách nô lệ : Nô lệ đế quốc La mã, và nô lệ đế quốc tội lỗi. Đức Giêsu xuất hiện, Ngài đi đó đi đây khắp nơi để xoa dịu những cực khổ thể xác, và giải phóng khỏi cách tội lỗi. Có nhiều tiếng đồn, nhiều dư luận về Ngài. Một ngày kia, trên con đường từ Betsaiđa đến thành phố Xêxarê Philip, Đức Giêsu đột ngột hỏi các môn đệ mình : “Còn anh em, anh em nghĩ Ta là ai ?” Các môn đệ bối rối trước câu hỏi đột ngột ấy nên không trả lời được, khi ấy, Phêrô lên tiếng : “Thầy là Đức Kitô”. Đức Kitô, đó là một danh xưng theo tiếng Hy Lạp, ý nghĩa của nó, nói theo ngôn ngữ thời nay, chính là “Vị anh hùng giải phóng”. Lời Phêrô nói : “Thầy là Đức Kitô”, có nghĩa là “Thầy chính là vị Anh Hùng giải phóng mà toàn dân đã từ lâu mong đợi”. Chắc hẳn Phêrô và các bạn ông rất hãnh diện vì được đi theo một Vị Anh Hùng như vậy. Họ dám bỏ lại sau lưng tất cả, nhà cửa, nghề nghiệp, gia đình, vợ con mà không hề tiếc nuối, bởi vì họ đi theo một Vị Anh Hùng, họ vô cùng hãnh diện.
Thế nhưng vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế. Đi theo một Vị Anh Hùng không phải chỉ để được hãnh diện, mà còn phải chia xẻ tất cả những gian truân nguy hiểm trên con đường dài mà vị Anh Hùng ấy đã vạch ra. Trong chuyện Karmeliuk, nhiều thanh niên đã hãnh diện khi được đi theo chàng. Thế rồi gian truân nguy hiểm đã phân họ thành hai hạng : có một người đã không chịu nỗi những gian khổ nên cuối cùng đã phản bội, nghe theo âm mưu của địch để đầu độc Karmeliuk, rất may là chàng không chết ; hạng thứ hai là những kẻ trung thành với chàng cho đến chết. Thánh Phêrô và các bạn cũng hãnh diện vì đi theo Đức Kitô. Nhưng Đức Kitô phải nhắc họ : Đi theo Ngài không phải chỉ để hãnh diện, mà còn phải cùng Ngài dấn thân vào con đường Thập Giá đầy đau khổ. Rõ ràng là các môn đệ chưa được biết điều đó, cho nên nghe vậy thì họ sợ nguy ngay. Và một lần nữa Phêrô lên tiếng thay các bạn “Thưa Thầy, đừng, không được như vậy đâu ?” Đức Giêsu nghiêm khắc rầy Phêrô và xác định lại dứt khoát “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác Thập Giá mà theo”. Từ đó trở đi, các môn đệ dần dần hiểu được con đường của Thầy. Nhưng họ cũng phân ra thành hai hạng : 1 hạng gồm những kẻ trung thành với Thầy cho đến chết, và hạng kia là Giuđa cuối cùng đã phản lại Thầy.
Đoạn kết của câu chuyện Karmeliuk và câu chuyện Đức Giêsu cũng giống nhau : cả 2 đều bị giết. Kể như cả 2 đều thất bại. Nhưng thực ra đó không phải là thất bại, mà là thành công : Karmeliuk đã gây được ý thức giải phóng nơi dân chúng, với ý thức đó, về sau họ đã đứng lên và dành lại được quyền sống cho mình. Còn CG thì đã vạch ra một con đường cứu thoát rõ ràng : phải dám vác Thập giá, phải dám chết đi, rồi sau đó sẽ sống lại và toàn thắng. Con đường ấy ngày nay đang được hàng trăm triệu người đi theo.
Trong số đó có chúng ta.
Nhưng hôm nay, chúng ta hãy đặt lại 2 vấn đề cơ bản :
Chúng ta có hãnh diện vì đã đi theo Đức Kitô không ?
Người ta thường hãnh diện khi đi theo một Vị Anh Hùng đang nổi tiếng, đang thành công, đang đứng giữa vòng hào quang. Nhưng những vị “Anh Hùng Mạt lộ” thì thường bị đệ tử bỏ rơi. Khi CG bị chống đối, rất nhiều người đã bỏ Ngài. Khi các thủ lãnh dân Do thái âm mưu giết ngài, Giuđa đã trở mặt, nộp Ngài cho chúng giết đi, còn Phêrô thì xấu hổ không dám nhận là môn đệ của Ngài. Có thể coi đó là tâm lý thường tình. Và chắc chúng ta cũng rơi vào thứ tâm lý thường tình đó khi thấy đạo của mình hình như không được vinh dự lắm, khi nghe thấy những lời chỉ trích, chế nhạo, lên án Đạo mình. Có người đã làm như Giuđa, trở mặt bỏ Đạo ; có người làm như Phêrô không dám để cho người ta biết mình có Đạo.
Giuđa thì một lần phản bội đã hư mất luôn. Còn Phêrô chỉ chối Thầy 3 lần. Sau đó đã ý thức được điều mà tôi đã trình bày ở phần trước : CG xem ra đã thất bại vì đã bị Vác Thập Giá và đã bị giết chết ; nhưng thực ra đó chính là thành công : Thập giá là đường đưa tới Phục Sinh, đau khổ là đường đưa tới vinh quang. Vì ý thức như vậy nên sau đó Phêrô (và các tông đồ khác) đã kiên trì theo Thầy cho đến cùng, và hãnh diện mà đi theo Thầy : vẫn hãnh diện khi bị bắt bớ, vẫn hãnh diện khi bị giết, luôn luôn hãnh diện. Thánh Phaolô đã nói “Vinh dự của chúng tôi là Thập Giá Đức Kitô”.
Đó là điều thứ nhất chúng ta nên nghiền ngẫm suy nghĩ.
Và điều thứ hai cần xác định : chúng ta đi theo Chúa không phải chỉ để được hãnh diện.
Theo ai, chủ yếu là để cùng chia vui, xẻ buồn với người đó, đồng lao cộng khổ để đồng hưởng vinh quang. Như lời Thánh Phaolô “Nếu ta cùng chết với Ngài. Ta sẽ sống lại với Ngài ; nếu Ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài chia xẻ vinh quang”. Ai có dám cùng bước với CG trên những đoạn đường gian khổ thì mới có thể cùng đứng với Ngài trên đài Vinh quang.
Nhưng Vinh Quang, chiến thắng chỉ là bước cuối cùng, có thể còn xa xôi vời vợi. Còn trước khi đó là cả một đoạn đường thánh giá dài lê thê. Theo Chúa là phải theo cả con đường thánh giá ấy thì mới có thể đến cuối đường vinh quang kia. CG đã nói trước “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác Thập Giá mà theo”.
Liệu chúng ta có kiên trì để theo Chúa như vậy không ?
Xin Chúa giúp chúng ta tìm ra câu trả lời,. Và nếu đó là câu trả lời : “Có” thì xin Chúa ban thêm sức cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể này mà chúng ta tiếp tục cử hành.
* 4. Tẩy rửa trái tim
Văn hào Dostoevski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” có kể lại câu chuyện sau đây : “Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo. Đức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường. Đức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo “Ad majorem Gloriam Dei”.
Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Đức hồng Y giáo chủ. Đức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đã nhận ra Người. Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Người. Người lặng lẽ vào giữa đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi. Một cụ già mù van xin : “Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Người”. Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được. Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Người đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Người đi.
Đức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi. Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nở. Trong đám đông có người hô lớn : “Con bà sẽ hồi sinh”. Người mẹ tha thiết : “Nếu đúng là Người xin hãy hồi sinh đứa con của con”. Đức Giêsu nhắc lại lời thuở trước : “Talitha Kum” và em bé ngồi lên.
Đúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống, đứa bé hồi sinh. Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Đức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt người. Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng. Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu. Ông vào ngục một mình gặp Người. Ông thương cảm nhưng “Luật là luật, trật tự của Giáo hội phải được bảo tồn bằng mọi giá”. Ông tuyên bố “Tôi chẳng rõ Người là ai. Hình như Người là Đức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa”.
*
Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các biệt phái và ký lục Do thái. Bài Tin mừng hôm nay chứng minh điều ấy, Đức Giêsu đang ở Galilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 Km đường bộ để chỉ hỏi tại sao các môn đệ Người không rửa tay trước khi ăn. Điều đó cho thấy người Do thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.
Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh dành cho các tư tế. Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa. Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Với suy nghĩ tương tự họ cũng rửa tay trước khi ăn. Ý tưởng này rất cao đẹp vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.
Khốn thay trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thoái hóa đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài, nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm tội. Nói như nhà thần học William Barclay : “Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tuỷ mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác”. Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.
Thế nên, Đức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm đến chuyện tẩy rửa trái tim. Họ rửa tay để được an tâm. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn mới thực là khó. Nhưng cái ô uế thực lại không từ bên ngoài vào, nó ở ngay trong trái tim mỗi người. Đức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim. Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi (x.Mc.7,21-22). Michael Taeboit nói : “Khi cái dầm tội lỗi ra khỏi mắt ta, tất cả thế giới sẽ tỏa sáng”.
Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim. Đổi mới được trái tim là đổi được tất cả. Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, làm việc bác ái… tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện, nếu chúng ta làm vì một lý do không mấy đúng đắn. Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa khi những hành động ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã quả quyết : “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr.13,3).
*
Lạy Chúa, xin nhắc cho chúng con nhớ rằng : luật lệ và nghi thức là cần thiết, nhưng đừng quên điều cốt lõi của luật Chúa là yêu thương. Xin dạy chúng con chỉ biết có một điều : là chúng con làm mọi sự chỉ để kính mến Chúa và yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
Mảnh suy tư
a/ Đầu và tim
Trong trường học, người ta để ý huấn luyện cái đầu hơn là trái tim, vì người ta cho rằng cái đầu mới biết suy nghĩ. Bởi đó người ta lo đào tạo nên những đứa trẻ giỏi hơn là những đứa trẻ tốt, vì công việc và nghề nghiệp sau này của đứa trẻ đòi hỏi hiệu năng hơn là tấm lòng. Kết quả của lối giáo dục trên là nền văn minh khoa học kỹ thuật ngày nay, rất hiệu quả nhưng cũng rất lạnh lùng, ích kỷ và tàn nhẫn.
Tuy nhiên trong trường đời thì trái tim lại quan trọng hơn, vì sống ở đời và giao tiếp với người đời, “được việc” mà thôi chưa đủ, còn phải “được người” nữa. Nền văn minh mang lại hạnh phúc cho con người không phải là văn minh của khoa học kỹ thuật mà là văn minh của tình thương.
b/ Chăm sóc bề ngoài
Hàng ngày xem TV, chúng ta thấy quảng cáo rất nhiều sản phẩm : các loại xà bông mới, các loại dầu gội mới, nhiều loại nước hoa v.v. Tất cả đều nhằm chăm sóc cho làm da, mái tóc, cơ thể… nhưng đều là bề ngoài. Ngày nay, người ta cũng để ý nhiều hơn đến chất lượng của những thức ăn và thức uống… Mọi thứ phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn thực phẩm an toàn và bổ dưỡng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những thứ từ bên ngoài được đưa vào trong cơ thể con người.
Nhưng xem ra người ta rất ít lo chăm sóc cái bề trong của con người, như lương tâm, lòng nhân ái, ý thức về tội… và cũng rất ít để ý tới những cái từ trong lòng phát ra.
Chuyện minh họa
Một sư phụ hỏi các đệ tử của mình : “Cái gì ta phải lo tránh nhất trong cuộc đời ?” Sau đây là những câu trả lời của các đệ tử :
– Một con mắt xấu
– Một người bạn xấu
– Một người láng giềng xấu
– Một trái tim xấu.
Sư phụ đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, bởi vì một trái tim xấu chứa đựng tất cả những sự xấu khác.
Sau đó sư phụ lại hỏi : “Và cái gì ta cần bồi dưỡng nhất trong cuộc đời ?” Cũng có những câu trả lời tương tự :
– Một con mắt tốt.
– Một người bạn tốt.
– Một người láng giềng tốt
– Một trái tim tốt.
Vị sư phụ cũng đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, vì một trái tim tốt chứa đựng tất cả mọi thứ tốt khác.
Nhưng sư phụ lưu ý thêm : Một trái tim tốt không chỉ là một trái tim sạch mà còn phải là một trái tim đầy, bởi vì một trái tim sạch có thể chỉ là một trái tim trống rỗng, còn một trái tim đầy thì chan chứa tình thương.
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, người biệt phái Do thái tranh luận với Đức Giêsu về sự ô uế và trong sạch Đức Giêsu đã bảo họ : “Tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người thành ô uế”. Chúng ta hãy khiêm tốn cầu nguyện :
- Xin cho các Đức Giáo Hoàng, Giám mục, Linh mục và cá giáo lý viên / biết hướng dẫn mọi người sống theo tinh thần lề luật của Chúa / và tránh mọi lối sống vụ hình thức cũng như giả hình.
- Xin cho các người lãnh đạo các dân tộc / biết ứng xử với nhau và với đồng bào của mình trong tinh thần và sự thật / để đôi bên luôn tín nhiệm và đoàn kết với nhau.
- Xin cho những người quen sống lối sống vụ hình thức và giả hình / biết nhận thức rằng chính lối sống đó chỉ làm cho họ trở nên ô uế xấu xa.
- Xin cho anh chị em trong giáo xứ chúng ta / biết yêu mến và tuân giữ lề luật của Chúa / hơn là chạy theo những thói quen ngoại giao giả hình.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã dạy chúng con rằng : tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong mà xuất ra. Xin Chúa giúp chúng con luôn thanh tẩy tâm hồn cho trong sạch, để chúng con biết phục vụ Chúa và mọi người trong thần khí và sự thật. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
TRONG THÁNH LỄ
– Trước lúc rước lễ : Chúng ta hãy nhớ lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng : “Chính cái từ trong con người xuất ra là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu : tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”. Xin Chúa thương tẩy xóa mọi thứ ô uế đó khỏi lòng chúng ta để chúng ta xứng đáng rước Chúa vào lòng.
GIẢI TÁN
Anh chị em hãy ghi nhớ một lời Tin Mừng hôm nay : “Dân này thớ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì lại xa Ta”. Ước gì tuy Thánh lễ đã kết thúc và chúng ta sắp ra khỏi nhà thờ, nhưng lòng chúng ta luôn gắn bó với Chúa.
Bài đọc thêm
THƯ GIACÔBÊ
TÁC GIẢ
Đầu thư có ghi tên tác giả : “tôi là Giacôbê, tôi tớ của Chúa Trời và của Đức Giêsu Kitô” (1,1). Điều này cho ta biết tác giả tên là Giacôbê. Nhưng Giacôbê nào vì Tân Ước có nhiều người tên Giacôbê ?
a/ Giacôbê “tiền” con của Giêbêđê, anh của Gioan, là một trong 12 tông đồ, được Đức Giêsu gọi là “con của sấm sét”, và cũng là một trong 3 tông đồ được Đức Giêsu thường đem riêng theo trong những hoàn cảnh đặc biệt ?
b/ Giacôbê con ông Anphê, cũng là một trong số 12 tông đồ ?
c/ Giacôbê “hậu” người bà con của Đức Giêsu (Mc 6,3). Dù không phải là tông đồ nhưng đã được thấy Chúa phục sinh hiện ra (1 Cr 15,7). Sau khi Đức Giêsu về trời, ông trở thành người lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem và đã chủ tọa công đồng Giêrusalem bàn về quy chế cho các tín hữu gốc lương dân ?
Giọng văn của một kẻ có quyền (3,1) khiến người ta đoán tác giả thư này phải thuộc giới lãnh đạo Giáo hội. Xét về nội dung thì tác giả viết cho những người do thái tòng giáo, có lẽ là giáo đoàn Giêrusalem. 2 chi tiết này khiến người ta kết luận tác giả thư này là Giacôbê hậu.
Tân Ước cho ta một số chi tiết về tác giả :
– là một người anh em của Đức Giêsu (Mt 13,55 – Tin lành, vì cho rằng Đức Giêsu có nhiều anh em ruột, nên còn nghĩ rằng Giacôbê là anh cả hay ít ra là anh kế tiếp Đức Giêsu, vì tên ông được kể đầu tiên trong bảng danh sách này).
– là một trong số ít người được Đức Giêsu chọn hiện ra sau khi Ngài sống lại (1Cr 15,7).
– được Phaolô coi là một trong những trụ cột của Giáo Hội (Gl 2,9).
– do đó Phaolô luôn quan tấm đến trình diện với Giacôbê sau khi mới trở lại đạo (Gl 1,19) và trong chuyến về Giêrusalem lần cuối (Cv 21,18).
– Ngay cả Phêrô cũng coi trọng Giacôbê : ngay sau khi thoát khỏi từ, Phêrô đã bảo người ta báo tin này cho Giacôbê (Cv 12,17).
– Giacôbê đóng vai trò quan trọng trong hội nghị Giêrusalem (Cv 15,13).
– là một người nổi tiếng đến nỗi trong thư Giuđa, tác giả không cần xưng tên mình trong liên hệ với cha mình (theo thói quen người do thái) mà lại lấy liên hệ với Giacôbê : “tôi là anh em của Giacôbê” (Gđ 1,1).
Tuy nhiên văn chương hy lạp của thư này quá hay, không thể là của Giacôbê anh em Đức Giêsu, vì ông này chỉ biết tiếng hy lạp sơ sài thôi. Nhưng cả 3 ông Giacôbê cũng đều như nhau về điểm này. Vậy có thể là Giacôbê anh em Đức Giêsu đưa ý tưởng, rồi một thư ký rành tiếng hy lạp viết lại.
THỜI ĐIỂM VÀ NGƯỜI NHẬN
Nếu ta nhìn nhận giả thuyết tác giả là Giacôbê hậu, thì thời điểm viết thư này vào khoảng các năm 57-62. Đó là thời gian ông điều khiển giáo đoàn Giêrusalem.
Đầu thư có đề tên người nhận, đó là “những kiều bào tản cư 12 chi tộc” (1,1b). Họ là những kitô hữu gốc do thái đang lưu lạc khắp nơi trong các diaspora giữa thế giới hy lạp, có lẽ sau biến cố Têphanô bị ném đá chết (x. Cv 8,1 11,19). Kiểu nói “12 chi tộc” chỉ toàn thể Dân Mới.
HOÀN CẢNH
Nội dung thư cho thấy 2 hoàn cảnh đặc biệt :
a/ Hoàn cảnh tín hữu bị bắt bớ ;
b/ Hoàn cảnh một giáo đoàn có sự chia rẽ giữa người giàu và người nghèo :
– Người giàu thì hám danh, đòi đặc quyền ngay cả trong những buổi nhóm họp phụng vụ (2,1-3), thích nói bù lu bù loa miễn là khỏi phải chi tiền (2,16), và bóc lột người nghèo (5,1-6)
– Người nghèo thì bị coi rẽ bởi chính những người tự coi là mục tử của họ (2,2-6)
Do chia rẽ như thế nên sinh ra ganh ghét (3,14 4,2), giận dữ (1,19), chửi bới nhau (4,11 5,9)
Giacôbê đứng về phía người nghèo để chống lại các bất công xã hội.
NỘI DUNG
Thư này không có một chủ đề chính như các thư của Phaolô, mà bàn về nhiều vấn đề cụ thể.
– 1,2-4 : sư thử thách
– 1,13-15 : Cám dỗ
– 2,1-13 : Cư xử với người nghèo
– 4,13-5,6 : Lên án người giàu
– 2,14-26 : Đức tin và việc làm
– 3,1-12 : Lo giữ miệng lưỡi
– 5,14-15 : Bí tích xức dầu bệnh nhân
NHẬN ĐỊNH
“Where there is life, there is motion” (hễ sống thì phải động) :
– Đành rằng “động” không sinh ra “sống”, nhưng “động” là bằng chứng hiển nhiên nhất của “sống”.
– “Động” là việc lành ; “sống” là đức tin.
– Giacôbê diễn tả một cách vừa dễ hiểu vừa rất chắc chắn : đức tin mà không có việc làm là đức tin chết ; quỷ cũng tin nhưng nó đâu có được cứu độ, vì nó tin mà không làm.
Thư này là câu trả lời rất vững chắc cho những kẻ ngụy biện rằng chỉ cần tin trong lòng (đạo tại tâm).
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LỀ LUẬT VÀ TRUYỀN THỐNG– Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
DẪN NHẬP
Thiên Chúa đã chọn Israel làm dân riêng của Ngài và ban cho họ Lề luật để tuân giữ. Đối với họ, nhiệt thành tuân theo lề luật là một cách thể hiện lòng yêu mến đối với Thiên Chúa. Ai yêu mến Lề luật và đem ra thực hành được kể là người khôn ngoan vì lề luật sẽ trở nên cho họ nguồn phát sinh sự khôn ngoan và đường dẫn tới sự sống và hạnh phúc.
Tuy nhiên, thực hành Lề luật không có nghĩa là chỉ thi hành những nghi thức bên ngoài và coi đó là xong nhiệm vụ. Những hình thức bên ngoài là cần thiết nhưng chúng chỉ là những yếu tổ bổ sung và phụ thuộc mà cái cần thiết nhất là tấm lòng. Hay nói cách khác, cần nhất là cái động lực thúc đẩy chúng ta làm. Chính cái động lực này đánh giá việc làm của chúng ta : nếu động lực tốt thì việc làm sẽ tốt, nếu động lực xấu thì việc làm sẽ xấu. Nếu việc làm mà thiếu động lực tốt thì việc làm chỉ là giả tạo và người làm việc ấy chỉ là giả hình :”Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, mà lòng chúng thì xa Ta”(Is 29,13).
Thiên Chúa đòi chúng ta một tấm lòng yêu mến và chân thành. Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ mà chính là lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa thúc đẩy chúng ta làm những công việc đó. Làm việc mà thiếu lòng yêu mến thì tất cả sẽ trở nên vô giá trị và vô ích. Hãy thực hiện lời thánh Augustinô :”Ama et fac quod vis” : Cứ yêu đi rồi làm gì thì làm.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Đnl 4,1-2,6-8.
Ông Maisen truyền đạt cho dân Israel Lề luật của Thiên Chúa để họ đem ra thực hành. Ông căn dặn dân chúng hãy trung thành giữ Lề luật Chúa, đừng thêm cũng đừng bớt điều gì. Những thánh chỉ của Chúa không phải là gì khác ngoài cách biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Ngài vì không có dân tộc vĩ đại nào đuợc Thần minh ở gần như Đức Chúa của dân Do thái mỗi khi họ kều cầu Ngài.
Do đó, những ai biết nhận ra tầm quan trọng, biết tuân giữ và biết sống theo Lề luật là những người khôn ngoan. Dân ngoại cũng phải nhận định rằng Israel là một dân tộc vĩ đại vì được Thiên Chúa ban cho họ những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề luật mà ông Maisen truyền lại cho họ. Giữ Lề luật là tỏ lòng yêu mến và trung thành với Đức Chúa.
+ Bài đọc 2 : Gc 1,17-18.21b-22.27.
Thánh Giacôbê, tác giả của lá thư này, không phải là một trong mười hai Tông đồ, nhưng là một người bà con của Đức Giêsu. Ngài lãnh trách nhiệm tổ chức và điều hành cộng đoàn Kitô hữu tại Giêrusalem. Ngài nài xin các tín hữu hãy ân cần đón nhận Lời Chúa vì Lời Chúa quả là một ân huệ to lớn. Nhưng Ngài còn thêm : đón nhận Lời Chúa chưa đủ, còn phải đem ra thực hành để được sinh hoa kết quả. Cụ thể là “thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân và giữ mình cho khỏi vết nhơ của thế gian”.
+ Bài Tin mừng : Mc 7,1—8a.14-15.21-23.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu tranh luận với nhóm biệt phái nhiều điều, nhưng chung qui là vấn đề sạch dơ :
– Họ dựa vào luật để qui định những cái gì sạch, cái gì dơ và từ đó buộc mọi người phải rửa tay trước khi dùng bữa.
– Họ chỉ chú trọng đến những cái gì bên ngoài dơ hay sạch chứ không chú trọng vào bên trong . Còn Đức Giêsu nhắc cho họ phải chú trọng đến vấn đề sạch dơ trong tâm hồn.
– Nhận thấy họ chỉ chú trọng vào những hình thức đạo đức bên ngoài, còn nội tâm thì trống rỗng nên Đức Giêsu coi họ chỉ là những người đạo đức giả :”Dân này thờ kính Ta bằng mội miệng, còn lòng chúng thì xa Ta”.
– Ngài kết án việc làm sai trái của họ : lẫn lộn luật Thiên Chúa và tập tục của tiền nhân. Sai trái hơn nữa là họ lấy tập tục của loài người để thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Thèm lòng chứ ai thèm thịt.
Người đời thường nói:”Thèm lòng chứ ai thèm thịt” hoặc “Vị tình vị nghĩa, không ai vị đĩa xôi đầy”, có nghĩa là người ta đến giỗ tết hiếu hỉ, thăm nom vì quan hệ tình cảm, vì cái lòng tốt đối với nhau chứ không phải cốt để ăn uống hoặc là thèm muốn miếng thịt đem biếu nhau. Trong quan hệ hằng ngày người ta cần cái lòng tốt chứ không cần hình thức bề ngoài. Câu tục ngữ này cũng giúp chúng ta hiểu rằng khi đến với Chúa, ta không cần phải chú trọng quá vào hình thức mà cần tấm lòng của chúng ta đối với Chúa, đó là yêu Chúa và tha nhân.
LỀ LUẬT VÀ TRUYỀN THỐNG.
Trong Cựu ước, bộ luật có tới 613 khoản, nhưng những khoản luật đó chỉ nói trên nguyên tắc, còn trong áp dụng thực hành người ta còn thêm vào những lời cắt nghĩa mà ta gọi là truyền thống hay truyền khẩu. Như vậy có hai thứ luật :
Luật thành văn.
Trong hai thứ luật này có cái cổ hơn và quan trọng hơn là Lề luật thành văn. Lề luật này căn cứ trên sách Torah (Ngũ Kinh), nghĩa là 5 cuốn sách đầu tiên của Cựu ước, đôi khi còn gọi là luật Maisen. Thật ra, Ngũ kinh hàm chứa một ít qui tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự giải nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Trong một thời gian dài, dân Do thái bằng lòng với những “kiểu mẫu” này. Họ áp dụng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
Luật truyền khẩu hay truyền thống.
Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu Lề luật, dưới biệt hiệu là Luật sĩ (Kinh sư). Nhóm người này thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng hơn, với nhiều chi tiết hơn. Do đó, họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn lề luật, qui tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh của đời sống. Các luật lệ và qui tắc ấy không hề được viết ra cho đến sau thời Chúa Giêsu một thời gian dài. Chúng vẫn được gọi là Luật truyền khẩu, đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
TRUYỀN THỐNG TRONG NGHI THỨC RỬA TAY.
Tập tục rửa tay.
Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa.
Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay, và phải rửa theo một nghi thức nhất định. Để bắt đầu, phải làm cho đôi bàn tay không còn dính đất cát vôi vữa sỏi sạn vụn hay các vật tương tự. Nước rửa tay phải được đựng trong những choé đá lớn, hay bình bằng đồng, để chính chúng cũng thanh sạch theo ý nghĩa lễ nghi, và để được chắc chắn là chúng không được dùng vào việc gì khác và chẳng có vật gì rơi rớt hay lẫn lộn, pha trộn vào đó.
Nghi thức rửa tay phải như thế này : trước hết bàn tay được xoè ra, các đầu ngón tay chỉ lên trên, nước phải được đổ phía trên và chảy xuống ít nhất đến cổ tay. Lượng nước tối thiểu phải dùng là một phần tư log, tương đương với số nước đựng đầy một vỏ quả trứng rưỡi. Trong lúc bàn tay vẫn còn ướt phải rửa bàn tay này bằng mu bàn tay kia. Đây là cách giải nghĩa cách thức rửa tay bằng mu bàn tay kia : mu bàn tay này phải kỳ cọ vào lòng bàn tay kia vàø toàn thể bề mặt của bàn tay kia. Như thế có nghĩa là trong giai đoạn này, hai bàn tay đã ướt nước, nhưng bây giờ nước đó đã bị dơ vì đã tiếp xúc với hai bàn tay dơ rồi. Một lần nữa phải chụp các ngón tay lại, chúc xuống dưới rồi đổ nước lên, sao cho nước từ cổ tay chảy xuống khắp các đầu ngón tay. Sau khi đã làm đúng như thế, thì đôi tay mới được sạch.
Rửa tay là việc quan trọng.
Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “dơ”, được ghi thành luật của Maisen trong sách Lêvi, được thêm vào nhiều chi tiết và qui định rõ ràng qua truyền thống.
Vào thời Đức Giêsu, dân Do thái tuân giữ những lệnh truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của Ngũ Kinh. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi vì nó nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống, nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xẩy ra vì tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài : tuân giữ những nghi thức này thì được kể là làm đẹp lòng Thiên Chúa, còn không giữ chúng đồng nghĩa với phạm tội. Nói tóm lại, tuân giữ những nghi thức bên ngoài này được đồng hóa, được đánh giá là đạo đức, là biết phụng sự Chúa.
Truyện : Nhịn uống để rửa tay.
Có một thầy tiến sĩ luật Do thái bị đi tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu, nhằm mục đích kéo dài cuộc sống cho qua ngày. Thời gian trôi qua, thầy luật sĩ yếu dần. Cuối cùng, người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông bị thiếu nước.
Các sĩ quan cai ngục không hiểu nổi tại sao ông ta lại có thể thiếu nước. Bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, nhưng vẫn tương đối đủ cho một cơ thể. Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát thầy luật sĩ một cách kỹ lưỡng hơn, xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng, người ta khám phá ra bí mật. Thầy luật sĩ ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn uống. Như thế ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
Ý nghĩa việc rửa tay.
Ngày nay, có một sự quan tâm to lớn đối với việc làm sạch sẽ thân thể. Vì thế mới có mọi thứ quảng cáo về xà bông và nước hoa. Và cũng có sự quan tâm về môi trường – với chất lượng của nước uống, thực phẩm và không khí. Điều đó không phải là quan trọng. Chỉ có một điều là có một môi trường khác còn quan trọng hơn : môi trường đạo đức. Điều xấu là ô nhiễm tồi tệ nhất trong mọi thứ ô nhiễm (Flor McCarthy).
Thực ra, việc rửa tay không phải chỉ nhằm việc vệ sinh thân thể nhưng là việc vệ sinh tâm hồn. Rửa tay là có ý rửa cho linh hồn mình được sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Trong thánh lễ, khi chủ tế rửa tay với chút nước thì đọc :”Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tôi con phạm xin Ngài thanh tẩy”. Nhưng tiếc thay, nhiều người Do thái chỉ chú trọng rửa tay là rửa tay theo truyền thống mà không để ý đến việc thanh tẩy tâm hồn mình. Vì thế, nhà thần học William Barclay nói:”Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tủy mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ một cách chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác”.
SAI LẦM TRONG VIỆC GIỮ TRUYỀN THỐNG.
Họ chỉ biết giữ lấy truyền thống.
Đọc bốn sách Tin mừng, ta phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các luật sĩ Do thái : họ giữ luật Maisen cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của Lề luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do thái giáo.
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Cái đó ở trong nội tâm chứ không phải ở bên ngoài.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy :”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình ! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng (=tức những điều phụ thuộc), mà bỏ những điều quan trọng nhất trong lề luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ”(Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Đối với lòng nhiệt thành giả tạo có vẻ quá hình thức này, Đức Giêsu nghĩ thế nào về họ ? Ngài trách cứ họ hai điều : một là giả hình, hai là làm đảo lộn giá trị.
Họ là những người giả hình.
Họ giả hình vì cũng như thời tiên tri Isaia, người ta không nghĩ đến sự hối cải trong các tâm hồn, mà chỉ bận tâm đến việc thực hiện mấy việc bên ngoài :”Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người”(Is 29,13).
Thiên Chúa là chân lý tuyệt đối, có nghĩa là sự gian dối không có chỗ nơi Ngài, không được Ngài ưa thích và ủng hộ. Trái lại, Thiên Chúa lên án cách sống giả hình, sai lạc với sự thật. Thiên Chúa không khinh chê người yếu đuối, tội lỗi, nhưng khinh chê những người đạo đức giả. Thiên Chúa yêu thương, tha thứ cho những yếu đuối, tội lỗi, nhưng Thiên Chúa không thể chấp nhận kẻ sống giả hình.
Nếu chỉ có những hành động bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước mặt Chúa. Còn những người luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen mà ta gọi là “việc đạo đức”, những hình thức do con người sáng tạo…thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn.
Những người giả hình này đáng người ta tặng cho cái nhãn hiệu “Tốt mã dẻ cùi”. Chim dẻ cùi là một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông mã, lông đuôi sặc sỡ ngũ sắc, coi giống chim phượng. Người ta đã gọi là phượng hoàng Nam (phượng hoàng của nước Nam) hay phượng hoàng đất. Nhưng chim dẻ cùi phải cái tật hay ăn cứt chó, cứt lợn. Người ta đã có câu :
Dẻ cùi tốt mã dài đuôi,
Hay ăn cứt chó , ai nuôi dẻ cùi.
Dẻ cùi tiếng hót lại không hay, vì vậy dẻ cùi tuy đẹp mã thật, song người ta không qúi mà lại khinh. Người ta thường dùng câu “Tốt mã dẻ cùi” để riễu người bề ngoài đẹp đẽ sáng sủa, ăn bận diêm dúa mà bụng dạ bẩn thỉu không tốt mà lại vô tài.(Văn Hoè, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 198)
Truyện : Sư máy.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “Sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ : đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận : những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Họ làm đảo lộn giá trị.
Họ chỉ giữ tập tục của tiền nhân là những tập tục của con người đặt ra. Các tiền nhân của người Do thái đặt ra nhiều tập tục tỉ mỉ mà các biệt phái và luật sĩ tuân giữ rất nhiệm nhặt. Biệt phái là những người Do thái rất sùng đạo, nhưng sùng đạo cách giả hình, vụ hình thức, vì họ chỉ chú trọng đến những hình thức bên ngoài như nhiệm nhặt gìn giữ các tục lệ của tiền nhân, chuộng hình thức bên ngoài mà không có tinh thần bên trong.
Chúa khiển trách họ:”Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người, vì các ngươi bỏ qua các giới răn của Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”. Chúa khiển trách họ là người làm đảo lộn giá trị vì họ chỉ chú ý đến việc tuân giữ các tập tục của tiền nhân mà lại bỏ qua những giới răn căn bản của Chúa. Họ coi trọng việc thuộc về con người hơn việc thuộc về Thiên Chúa.
ĐIỀU CHÚA MUỐN DẠY TA.
Nhân dịp các luật sĩ chê trách các tông đồ không rửa tay khi dùng bữa, Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học : cái xấu xa không phải từ ngoài mà vào mà ở trong mà ra. Ngài nói:”Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu : tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình… Tất cả những điều xấu xa dó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”. Do đó, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay việc dữ.
Theo lời Chúa dạy, chúng ta thấy yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bề ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác, hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm quyền hành nhằm thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người “tình ngay mà lý gian”, hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim. Đổi được trái tim là đổi được tất cả. Điều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy.
Chúng ta cần lưu ý rằng luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát biết bao ! Ngài biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên mà Ngài đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của một nền văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập tục tổ tiên nào có thể đi ngược lại những luật căn bản này, mà mọi người đều phải công nhận trong thâm tâm của mình.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con biết quan tâm đến việc tu tâm dưỡng tính, nghĩa là có một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều (JKN).
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
VỚI CẢ TÂM TÌNH- ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Truyện thiền kể có hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư liền bế thiếu nữ vượt qua vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?” Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh họa rõ nét về hai lối sống đạo. Lối sống đạo theo hình thức và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành. Ông đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không xét đến nội tâm của mình.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những lề luật theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại đạo. Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả những đồ vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ai động đến những đồ vật đã bị ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những người bị ô uế sẽ không được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát bên ngoài cho sạch.
Đức Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi, sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa.
Vì quá chú trọng đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương hơn là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
Những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”.
Vì thế, khi làm việc gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản ánh trung thực tâm hồn. Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực. Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối. Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi Chúa. Khi ăn chay, tâm hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng.
Với tất cả tâm tình, những nghi thức mới trở nên có hồn, thành thực. Với tất cả tâm tình, ta mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa ta đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
1) Rửa tay hay rửa linh hồn, điều nào quan trọng hơn?
2) Điều gì quan trọng nhất trong đạo? Làm những việc phi thường hay là mến yêu Chúa và yêu thương anh em?
3) Bạn thường đi lễ cho đầy đủ bổn phận hay đi lễ vì yêu mến Chúa?
4) Bạn làm việc thiện vì yêu mến người nghèo hay vì muốn khoe khoang?
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CAO CẢ VÀ BI ĐÁT- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thánh với phàm, thiêng với tục là những phạm trù tôn giáo mà mọi thời và mọi nơi đều biết đến.
Cái thánh thiêng là cái cao cả siêu việt, khác lạ, đáng kính và nhiều khi đáng sợ.
Cái phàm tục là cái thông thường, cái tầm thường, nhiều khi còn có thể đáng khinh và bị coi là ô uế dơ dáy.
Trong các tôn giáo sơ khai, cái thánh thiêng hiện diện ở khắp nơi trong mọi sự từ núi cao đến sông dài, từ đền thờ tới gốc đa, gốc đề, từ tượng thần đến cái bình vôi, từ cá sấu đến các tinh tú.
Trái lại, ngày nay trong thế giới tục hoá, mọi sự đều được giải thiêng, chẳng có gì thánh thiêng ngoài khoa học thực nghiệm duy lý với các định luật, các công thức.
Trong tiếng Do thái,Thánh có nghĩa là tách biệt. Cái linh thiêng là cái gì tách biệt khỏi cái thường ngày, tách khỏi cái tầm thường thông tục.Cái thánh thiêng là cái gì khác lạ cao xa, ở bên ngoài, ở bên kia, ở bên trên cái thông thường. Do đó,Thiên Chúa được gọi là Đấng Thánh, bởi vì Người cao cả, siêu việt tuyệt đối khác lạ. Người là Đấng siêu việt. Đấng cao cả, linh thiêng phải ngự ở những nơi linh thiêng cao cả. Đó là những ngọn núi thánh, những Đền thờ, những nơi tách biệt khỏi chốn phàm trần. Những người được tuyển chọn để phục vụ Đấng Thánh cũng phải là những người tách biệt khỏi người phàm. Hàng Tư tế trong dân Do thái chỉ được chọn từ chi tộc Lêvi. Họ phải là những người không tỳ vết, không tật nguyền, phải giữ những luật lệ khắt khe hơn người thường.Tất cả những gì dành riêng cho Đấng Thánh, những gì được coi như thuộc về Người, đều là những cái thánh: núi thánh, đền thánh, nơi thánh, ngày thánh, đồ vật thánh. Phạm đến những cái đó là phạm đến chính Đấng Thánh.
Quan niệm linh thánh như vậy muốn tách biệt cái thánh thiêng ra khỏi cái phàm tục.Từ đó người ta đẩy xa Đấng Thánh ra khỏi cuộc đời và ngày càng đóng khung Người vào trong phạm vi của núi thánh, Đền thờ, nơi thánh, nơi cực thánh. Không gian của Người ngày càng bị thu hẹp lại.
Dân Israel được gọi là Dân Thánh, dân riêng của Chúa, thuộc về Chúa. Họ tự coi mình là sở hữu Thiên Chúa: Người là của riêng họ, thuộc về họ. Dân Israel chờ đợi một vị thiên sai ngự đến trong cung thánh đền thiêng.
Trong một thế giới mà cái thánh thiêng và cái phàm tục được xác định rạch ròi tỉ mỉ như thế, chúng ta mới thấy việc Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Thánh làm người, một người phàm ở giữa những người phàm gặp phải sự chống đối quyết liệt.
Ngay từ giây phút nhập thể, Đức Giêsu đã không đến trong Đền thờ mà lại đến trong căn nhà nhỏ bé ở Nazareth. Thiên Chúa làm người trong lòng một thôn nữ vô danh đối với người Do thái. Rồi khi chào đời, Người đã lấy chuồng bò lừa làm nhà ở, lấy máng cỏ làm nôi, lấy những kẻ mục đồng vốn bị người Do thái coi là uế tạp làm bầu bạn.Trong suốt cuộc đời, Đức Giêsu sống như một người tầm thường giữa những người nghèo khổ, đồng hành ăn uống với những người bị coi là tội lỗi, thâu nhận người thu thuế làm môn đệ.
Trang Tin mừng hôm nay kể về một sự kiện trong chuỗi những chống đối quyết liệt đó. Các Biệt phái Kinh sư trách các môn đệ Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn. Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisiêu và Kinh sư nói riêng và dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, chứng tỏ mình thanh sạch trước mặt mọi người. Vì thế, họ chất vấn Đức Giêsu: Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay mà dùng bữa?
Đức Giêsu đã cho biết thế nào là sạch thế nào là dơ, thế nào là thánh thiêng, thế nào là phàm tục. Của ăn được nấu chín là sạch. Cái làm cho dơ đó là lòng người. Cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ.
Có câu chuyện trong sách Tông đồ công vụ (10,11-16). Vào trước giờ ăn trưa, Thánh Phêrô cầu nguyện và xuất thần: “Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống, trong đó có mọi giống vật bốn chân, rắn rết và mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông: Phêrô, đứng dậy làm thịt mà ăn! Phêrô thưa: lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch. Có tiếng phán với ông lần thứ hai: những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, ngươi đừng gọi là ô uế. Việc đó xảy đến ba lần, và lập tức vật ấy được đưa lên trời.”. Như vậy những gì Thiên Chúa sáng tạo đều là sạch, con người không thể coi là nhơ bẩn.
Đức Giêsu bác bỏ hoàn toàn quan niệm về sạch dơ của người Do thái. Đối với Người, không có gì bên ngoài lại làm cho con người ra dơ trước mặt Thiên Chúa. Cái gì dơ, cái gì tội lỗi chính là từ trong lòng người mà phát xuất ra. Đó là: tà dâm, trộm cắp giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác xảo trá, trác táng, ganh tị, kêu ngạo, ngông cuồng.Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người ra ô uế.
Người đời đã phải than thở rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho tường”; “Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ có câu: “Khẩu Phật tâm xà” hay “ Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả hạng người mang mặt nạ che dấu lòng dạ ác độc bên trong, loại người mà “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Một trong những đặc trưng của kỹ thuật hiện đại là kỹ thuật làm đồ giả. Chân giả, tay giả, tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả…. Những thứ giả ấy đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm ngũ quả, hoa nến nhang đèn đều giả… Mức độ “giả” còn tinh vi nên lắm khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cái thật, khó mà phân biệt được thực hư, tốt xấu. Nhưng tệ nhất vẫn là thứ “Giả nhân giả nghĩa”, thứ “giả hình” mà Chúa đã nặng lời khiển trách (Mt 23,13-29). Thánh Gioan đã lật tẩy: “Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1Ga 2,4); “Ai bảo mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu người anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).
Cõi lòng hay thế giới nội tâm làm cho con người nên cao cả nhưng nó cũng làm nên sự bi đát. Cao cả và bi đát đan xen trong lòng người như ánh sáng và bóng tối.
Con người nên cao cả là nhờ thế giới nội tâm với tư duy, cảm xúc, phân tích, đúc kết, kinh nghiệm… Nhờ có thế giới nội tâm mới có khoa học, có sáng tạo văn hoá nghệ thuật. Cũng chính cái thế giới nội tâm này làm cho con người trở nên bi đát. Bề ngoài và bề trong liên quan với nhau và tác động lẫn nhau, nhưng về mặt luân lý đạo đức, bề trong mới là phần quyết định. Chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn. Đức Giêsu đã nhận xét: “ Không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong lòng mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế” (Mt 15,19).
Đức Giêsu nhấn mạnh sự thanh tẩy từ bên trong. Người chẳng phản đối chuyện rửa tay. Người chỉ phê bình thói hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là rửa cõi lòng. Cái ô uế thực sự đáng sợ không đến từ việc đụng chạm hay ăn uống mà nó lại nằm trong lòng người. Nó không từ ngoài vào mà từ bên trong ra.
Đối với Đức Giêsu, yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bên ngoài. Ý hướng bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có gía trị hay không. Đức Giêsu luôn sống tình thương với mọi người, luôn “chạnh lòng thương”.Tình thương chính là sự thánh thiện. Tình thương là thanh sạch. Đấng Thánh hôm nay có tên gọi là Tình Thương.Tình thương là chia sẽ, là hiệp nhất. Sự thánh thiện của Đức Giêsu luôn rộng mở lan toả hương thơm tình thương, thanh sạch.
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có viết trong cuốn “Giọt máu” một câu rất sâu sắc “Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa. Đấy là chí thánh”.Tác giả hiểu ý nghĩa của từ chí thánh theo đúng những gì là phàm tục, thế gian là cõi hồng trần bụi bặm. Cái chí thánh chính là dìm mình, hoà vào trong bùn lầy, trong tội lỗi để làm cho từ vũng bùn lầy, từ vực thẳm tội lỗi ấy nở hoa, rực lên sự thánh thiện. Tôn giáo nhắm trực tiếp vào nội tâm con người, vì thế có lẽ nó còn hữu hiện hơn xã hội rất nhiều trong việc chế ngự cái xấu, cổ vũ cái tốt. Bởi vì tôn giáo chân chính nào cũng đều kêu gọi, động viên, giáo dục con người làm lành lánh dữ, vươn lên làm chủ phần hạ đẳng nơi mình để thăng hoa phần cao thượng trong sáng. Người ta có thể không sợ dư luận hay luật pháp (vì còn có thể che dấu luồn lách), nhưng một khi đã tin vào Đấng Linh Thiêng và nếu đó là một niềm tin sống động, người ta khó có thể không sợ sự phán xét của lương tâm và nhất là của Đấng họ thờ kính.
Thường thì khi vừa sinh ra, người ta có cái tâm hồn hậu nhưng cái trí dại khờ. Càng lớn lên, trí càng khôn ngoan nhưng tâm càng vẩn đục. Đi cho trọn đường trần là trí học biết được càng nhiều càng tốt những khôn ngoan mà tâm vẫn giữ được cái hồn hậu của tuổi ấu thơ.
Đối với người Kitô hữu, nếu như xã hội mong muốn và chờ đợi chúng ta sống đạo đức một, thì chính Chúa còn đòi buộc chúng ta phải “thánh thiện” trăm ngàn lần hơn: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48); “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mắt thiên hạ, để họ nhìn thấy công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,14.16).
Con người sống ở đời cần có một tấm lòng, một trái tim yêu thương chân thành. Thiên Chúa đã ra lệnh truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31). Người còn phán: “Ta sẽ thanh tẩy các ngươi, Ta sẽ ban cho các ngươi môt trái tim mới” (Ed 36,25). Một trái tim mới biết yêu thương hay một tấm lòng để người ta sống tốt đẹp với nhau.
Tình thương của Chúa Giêsu là tình thương cứu thế, muốn thanh tẩy con người tội lỗi, rửa sạch tâm hồn và trao ban sự sống mới.
Trong đời sống tâm linh, người Kitô hữu cần phải tu dưỡng cái tâm, phải có tâm ngay lành, luôn tôn trọng sự công bằng, yêu thương mọi người. Cần có một tấm lòng, tâm tốt thì mọi việc làm sẽ đẹp lòng Chúa.
Người Kitô hữu mỗi ngày đến nhà thờ dự tiệc Thánh Thể. Đưa tay đón nhận Bánh Thánh là đón nhận tình thương và thanh sạch của Chúa.Bàn tay đón nhận Bánh Thánh cũng là bàn tay bác ái yêu thương góp phần thánh hoá trần gian.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
SAO BỎ LUẬT CHÚA MÀ GIỮ TỤC LỆ PHÀM NHÂN– Lm. Trần Bình Trọng
Người ta kể một luật sĩ nổi tiếng tên là Aquila đã chịu chết đói trong tù, chứ không chịu ăn vì không có nước rửa tay. Thời nay coi luật sĩ đó là cuồng tín, khùng điên, nhưng người Do thái thời đó đã tôn vinh ông như một đấng thánh tử đạo.
Thời nào cũng có hạng người cuồng tín như thế. Có hàng ngàn hàng ngàn người cuồng tín theo những giáo phái, những chủ nghĩa, những chế độ để rồi lao mình vào chỗ chết như con thiêu thân. Con thiêu thân đã lao mình vào lửa, tưởng đó là ánh sáng vinh quang của nó.
Những người Phát xít Đức, Phát xít Nhật đã cuồng tín theo chủ thuyết chủng tộc thống trị thế giới, đã lao mình vào lửa chiến tranh, và thiêu thân hàng chục triệu người. Bao nhiêu người đã hy sinh chết cho những bạo chúa như Tần thủy Hoàng, Nerôn, cho những kẻ độc tài dã man như Hít-le, Stalin, Pôn-pốt … Họ đã nắm giữ những giáo điều, những giới luật của phàm nhân.
Những Pharisiêu, luật sĩ Do thái cũng bị mê hoặc theo các giáo điều của tục lệ tiền nhân để trói buộc dân chúng vào những luật lệ khắt khe như tục lệ thanh tẩy, rửa tay trước khi ăn, ở nơi công chúng về phải tắm rửa. Tắm rửa phải lấy nước ở bình đồng, bình sành, hay bình gỗ, tùy nố luật dạy, phải rửa từ khuỷu tay trở xuống hay phải giặt cả quần áo, phải rửa hai lần: một lần rửa tay bẩn, một lần rửa lại cho sạch hết nước bẩn dính ở tay. Tắm rửa rồi, còn tùy từng trường hợp được sạch ngay hay tới chiều, tới tối mới được sạch.
Luật thanh tẩy được coi là luật thánh của tôn giáo, chứ không phải là phép vệ sinh giữ gìn sạch sẽ bình thường. Ai vi phạm là mắc trọng tội như tội ngoại tình, đáng phải ném đá, hay bị khai trừ khỏi quốc giáo. Vì tính cách quan trọng như thế, cho nên không lạ gì các thầy Pharisiêu và luật sĩ của thủ đô Giêrusalem phải chính thức thân hành đến kiểm tra, xem xét, hạch tội Chúa Giêsu và các môn đệ để có lý do tố cáo và kết án: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa”. Đức Giêsu đã trưng dẫn lời tiên tri Isaia để trả lời họ, giúp họ thấy việc tôn thờ Thiên Chúa của họ vô ích và giả hình, họ chỉ dạy tục lệ phàm nhân.
Sau đó, Người gọi dân chúng lại để phân biệt cho họ thấy đâu là nguồn gốc sinh ra tội lỗi, đâu là không. Những cái bên ngoài vào trong con người, không biến con người thành ô uế tội lỗi được. Từ lòng con người xuất ra mới làm con người mắc tội như tà dâm, trộm cướp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ghen tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
Tuy nhiên, với sứ mệnh là Đấng Cứu Thế, Đức Giêsu còn đi xa hơn nữa, Người cương quyết cởi trói nhân loại khỏi luật lệ vô nhân đạo của truyền thống loài người để thăng tiến con người sống theo luật bác ái, luật phổ biến và luật Thiên Chúa.
Vì bác ái, Đức Giêsu đã bảo vệ những con người bị loại trừ khỏi hội đường Do thái. Những người bị coi là phường tội lỗi, thu thuế và ô uế. Người ngồi đồng bàn với quân thu thuế và tội lỗi. Người nói chuyện với phụ nữ Samaria có bảy đời chồng. Người tha thứ cho người ngoại tình mà họ muốn kết án ném đá. Người đón nhận anh mù từ khi mới sinh bị hội đồng Do thái khai trừ.
Vì Tin mừng cứu độ được phổ biến cho muôn dân, Đức Giêsu đã giải thoát khỏi cái ách tục lệ của Do thái. Người đã đào tạo các môn đệ đi với Người đến với lương dân miền Thập tỉnh, miền Samaria, và người La mã. Người đến cứu thoát người lương dân bị quỷ ám hành hạ cực khổ miền Giêrasa. Người nêu gương nhân hậu của người Samaria đã cứu kẻ bị cướp đánh nằm nửa sống nửa chết giữa đường. Người tuyên bố chưa từng thấy ai trong dân Israel có đức tin mạnh mẽ như viên đại đội trưởng Rôma. Trước khi về trời, Người truyền dạy cho các môn đệ phải đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, chứ không thể sống hẹp hòi, cố chấp, kiêu ngạo như Pharisiêu và luật sĩ coi chư dân là vô đạo, Samaria là ô uế, Rôma là kẻ thù. Luật Do thái dạy: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới là con cái Cha ngự trên trời, là Đấng đã cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất chính … Vậy anh em hãy nên toàn thiện như Cha anh em trên trời” (Mt. 5, 43-45 … 48).
Vì luật toàn thiện của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã bác bỏ những luật bất toàn của phàm nhân. Người đã chống lại luật thanh tẩy giả hình bên ngoài và dạy phải thanh tẩy tâm trí bên trong. Người cứu chữa kẻ tàn tật để vạch ra những mù quáng của biệt phái hiểu sai lầm về ngày nghỉ lễ Sabat. Người cảnh cáo lối thờ phượng Thiên Chúa bằng môi, bằng miệng mà lòng thì xa Thiên Chúa. Người đuổi những con buôn biến đền thờ thành hang trộm cướp do những tư tế lạm dụng lễ thánh để trục lợi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sẵn sàng chịu chất vấn, tra hỏi của những kẻ cuồng tín theo luật lệ phàm nhân, để rao giảng Tin mừng, loan báo luật bác ái và sự toàn thiện của Thiên Chúa cho muôn dân được cứu độ. Xin soi sáng cho chúng con biết cởi bỏ những đam mê cố chấp, những thành kiến mù quáng phàm trần, để thực thi công bình, bác ái và nên hoàn thiện như Cha chúng con ở trên trời.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐƯỜNG HAY PHÁO ĐÀI- Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Có một Rabbi Do Thái tên là Agiba, bị giam trong một trại tù ở Rôma. Ông rất trung thành với lề luật và truyền thống tổ tiên để lại. Tù nhân vẫn được cho ăn uống tử tế và đầy đủ, nhưng chỉ một thời gian ngắn, sức khoẻ ông bị giảm sút nghiêm trọng. Sau một thời gian theo dõi, giám thị trại giam đã tìm ra nguyên nhân. Lý do đơn giản, vì phạm nhân đã dùng hầu hết số nước được cấp phát thay vì uống, lại để rửa tay trước khi ăn. Cơ thể ông ta thiếu nước một cách trầm trọng. Vị Rabbi Do Thái này đã cương quyết tuân thủ lề luật bằng bất cứ giá nào.
Giai thoại trên do tác giả Barlay kể lại, dẫn chúng ta đi vào bối cảnh câu chuyện được trình thuật trong Tin mừng hôm nay. Những người biệt phái tỏ ra rất khó chịu khi thấy các môn đệ Đức Giêsu dùng bữa mà không rửa tay trước. Câu trả lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải canh tân nội tâm để thực hiện những giới luật của Thiên Chúa. Chúng ta đừng bao giờ tỏ ra xơ cứng, chỉ thỏa mãn trên việc thực thi lề luật cách máy móc theo hình thức bên ngoài.
Lex Occidit (chữ viết luật lệ thì giết chết)
Trong các sách Tin mừng nhất lãm, các thánh ký khá nhiều lần thuật lại sự đối kháng giữa Đức Giêsu và các đầu mục Do Thái, đặc biệt nhóm biệt phái. Trình thuật trong Tin mừng hôm nay là một ví dụ điển hình. Những người biệt phái “nhắc khéo” Chúa Giêsu: “Tại sao môn đệ ông không rửa tay trước khi ăn?”. Có lẽ lời nhắc nhở này phát xuất từ lòng thương hại của họ hơn là để phê phán hay chỉ trích. Đối với họ, phải giữ lề luật cách cẩn trọng và tỉ mẩn, con người mới trở nên công chính và thánh thiện. Cũng vậy, có lần họ thấy những học trò của Chúa Giêsu bứt lúa để ăn cho đỡ đói trong ngày hưu lễ. Họ bực bội khó chịu, và không thể chấp nhận một hành vi phạm luật như thế. Ngày Sabat theo luật viết, là một ngày để nghỉ ngơi, không được làm bất cứ công việc gì. Nhóm biệt phái còn soạn thảo thêm 36 chi tiết tỉ mỉ, nêu ra những điều cấm kỵ tuyệt đối không được đụng tay vào trong ngày hưu lễ. Gặt lúa bị nghiêm cấm, quạt thóc cũng không, ngay cả nấu nướng cũng chẳng được phép làm. Họ tự nghĩ ra những rào cản rất vô lý, không những để tự trói buộc mình, mà còn chất bao gánh nặng lên vai người khác. Chúa Giêsu phản kháng hoàn toàn. Ngài chống đối kịch liệt, và cao điểm nhất, Ngài kết án thái độ giả dối của họ một cách thẳng thừng. Thánh Matthêu đã liệt kê 7 điều “chúc dữ” Chúa đã nói một cách gay gắt nhắm vào họ, không một chút khoan nhượng. “Khốn cho các ngươi, các kinh sư và các Pharisiêu giả hình, các ngươi khóa cửa nước trời không cho ai vào. Các ngươi làm bộ để nuốt hết tài sản của các bà góa… Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bề ngoài ra vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác…” (xem Mt 23,13-32).
Xem ra mũi dùi tấn công của Chúa Giêsu nhắm vào họ quá cứng rắn và đanh thép, biểu tỏ một thái độ bất nhân nhượng, không thể chấp nhận. Nhưng Chúa có lý do. Ngài ghét cay ghét đắng những con người giả dối chỉ biết giữ lề luật một cách cứng ngắc và giả dối bề ngoài, còn tâm hồn bên trong lại rỗng tuếch. Ngài khẳng định rằng, Ngài đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng để kiện toàn, tức mặc cho lề luật một chiều kích nội tâm. Biệt phái ngày xưa đã hết từ lâu, nhưng kiểu cách biệt phái vẫn còn nơi cuộc sống chúng ta, nơi từng mỗi giáo dân, đặc biệt nơi anh em linh mục hay tu sĩ. Chúng ta giữ ngày Chúa nhật bằng việc lê xác tới nhà thờ cho có lệ, nhưng tâm hồn vẫn để ở đẩu ở đâu. Chúng ta vẫn ăn chay kiêng thịt vào ngày hội thánh buộc, bao tử có thể trống rỗng và đói cồn cào, nhưng tâm hồn lại chất đầy hận thù và tham lam bẩn thỉu. Chúng ta đến nhà thờ đấm ngực thật to và cùng đọc với mọi người: lỗi tại tôi, lỗi tại tôi.., nhưng vừa bước chân ra bên ngoài, chúng ta lại đấm lộn qua ngực người khác bằng cách chỉ trích hết người này, đến kết án người nọ. Việc tuân thủ lề luật một cách xơ cứng và vô nghĩa như thế có khác gì thái độ của những người Pharisiêu năm xưa. Quả thật, Lex Occidit, luật lệ cứng ngắc sẽ giết chết chúng ta.
Spiritus Vivificat. (tinh thần lề luật mới làm cho sống).
Tuân giữ lề luật một cách máy móc sẽ giết chết, sẽ nhấn chìm chúng ta trong bóng tối của mù lòa, nhưng thực thi tinh thần lề luật sẽ làm cho chúng ta sống. Đây là điều Thánh Phaolô đã khẳng quyết trong thư Rôma. Thánh giáo phụ Irênê cũng nói “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”, hoặc tác giả sách Khôn ngoan cũng diễn tả: “Thiên Chúa chẳng vui gì khi thiên hạ tiêu vong” (Kn 1,13). Đức Giêsu đến trần gian để cho chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Vì muốn chúng ta được sống, nên Đức Giêsu đã mặc cho lề luật một chiều kích nội tâm. Ngài gọi mời chúng ta đi vào tinh thần lề luật để được sống. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã khẳng định khá nhiều lần: “Anh em cần phải cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần lề luật, chứ không phải theo chữ viết của lề luật (Rm 2,29b)”. “Chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới, chứ không theo bản văn cũ của lề luật (Rm 7,6). Cuối cùng, thánh tông đồ đã tóm kết toàn bộ lề luật vào một định thức giản đơn. Ngài viết “Yêu mến là chu toàn lề luật” (Rm 13.16).
Như vậy, tinh thần của lề luật, chính là tình yêu. Trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu đã chuyển giao cho các học trò lề luật mới này: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Lề luật mà Đức Giêsu thiết định bằng máu Ngài đổ ra trên Thập giá chính là tình yêu, tình yêu mà Ngài đã thực thi như một nguyên mẫu. “Anh em hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương anh em.”
Nói tóm lại, không phải Đức Giêsu đả kích lề luật cũ của cựu ước, nhưng Ngài kiện toàn và nội tâm hóa lề luật, đồng thời Ngài mời gọi chúng ta đi vào cốt lõi của lề luật, đó là thực hành yêu thương.
Thiên Chúa thấu rõ tâm hồn mỗi người. Thánh Augustinô đã thưa với Chuá: “Lạy Chúa, Ngài biết rõ con hơn cả chính con biết con”. Chúng ta không thể giấu diếm Thiên Chúa được một điều gì. Thiên Chúa không bao giờ đo đếm những thành tích đạo đức bề ngoài để đánh giá con người chúng ta, nhưng Ngài thấu tỏ mọi bí ẩn trong tâm can từng người. Thước đo duy nhất để Ngài định giá chúng ta chính là thước đo tình yêu. Những biệt phái ngày xưa, bề ngoài rất đạo đức, không chê vào đâu được: “Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần 2 lần, con dâng cúng một phần mười huê lợi của con…”, nhưng Chúa nói thẳng vào mặt họ: “Đồ giả hình và gian ác” (Mt 23,30). Chúng ta hãy lục soát lương tâm để xem có bao giờ Chúa phải nói với chúng ta như thế hay không?
Cha Anthony de Mello, một tu sỹ dòng Tên đã viết một câu chuyện khá ý nghĩa. Một ông vua nọ chơi bời tác tráng, cả ngày chỉ nhậu nhẹt và lao đầu vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của ông lúc nào cũng đỏ gay và sặc sụa mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sỹ già khuôn mặt nhợt nhạt xanh xao, áo quần lôi thôi lếch thếch. Nhà vua dừng lại và trịch thượng chào vị tu sỹ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sỹ. Nhìn áo quần nhàu nát và khuôn mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo”. Vị tu sỹ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào. Một lát sau, ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp lễ: “Thần xin cám ơn bệ hạ, còn bề tôi thấy khuôn mặt đức vua giống như một vị thánh”. Nhà vua kinh ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi không buồn cũng chẳng giận, còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh, tại sao thế?. Vị tu sỹ điềm nhiên và thong thả trả lời: “Tâu đức vua, một con người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, nhìn thấy ai cũng giống heo. Ngược lại, một con người có tâm hồn và trái tim của một ông thánh, sẽ thấy mọi người giống các vị thánh. Nói xong vị tu sỹ lặng lẽ bỏ đi còn nhà vua đứng chết lặng.
Chúng ta giữ đạo và giữ luật với trái tim của loài heo hay của một ông thánh? Chúng ta tuân thủ các điều luật trong giáo hội với tâm hồn của những người Pharisiêu năm xưa hay với trái tim nhân hậu của của Chúa Giêsu? Chúng ta hãy tự lục soát lương tâm và nhìn thẳng vào nội tâm chính mình để tìm câu trả lời.
Đường hay pháo đài?
Đây là tựa đề của một quyển sách do Nguyễn Ngọc Lan biên soạn. Ông là một cựu tu sỹ Dòng Chúa Cứu Thế, đã suy tư và viết cuốn sách này năm 1972. Trong tác phẩm, ông đặt vấn đề với tất cả chúng ta, đạo Công giáo là đường hay pháo đài? Pháo đài là một thứ lô cốt cứng ngắc chúng ta chui vào đó để cố thủ, để ôm giữ. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo một cách khô cứng với những lề luật hình thức bên ngoài, chẳng khác nào chúng ta đang khăng khăng ôm giữ một pháo đài. Điều đó cũng giống như những anh chàng Hồi giáo IS quá khích ngày nay quyếtgiữ bom trong mình để liều chết. Còn nếu chúng ta không phải giữ đạo mà sống đạo, thì đạo đích thực là một con đường. Con đường trước mắt luôn mở rộng thênh thang để chúng ta bước đi, đi đến gặp gỡ Thiên Chúa và đi đến gặp gỡ anh em. Đạo công giáo của Chúa Giêsu là đường, chứ không phải pháo đài.
Kết luận
Nếu bình thản đọc lại bộ giáo luật 1983, chúng ta thấy ngay từ lời tựa đầu tiên, Giáo hội đã đưa ra những tiêu chí chung cho tất cả 1752 khoản luật viết trong đó. Tiêu chí đó là: “ Để giúp việc chăm sóc các linh hồn, không chỉ là đức công bằng, nhưng luôn phải dành chỗ cho đức ái, tiết độ, nhân đạo…Vì thế, các mục tử nên loại bỏ các khoản quá cứng ngắc. Hơn nữa, mỗi khi không cần những khoản luật nhằm phục vụ công ích và kỷ luật chung của Giáo hội, chỉ nên sử dụng lời khuyên hay khuyến cáo mà thôi”. Chúng ta hãy đọc kỹ lại những hướng dẫn này.
Lời nhắc nhở này dành cho mọi tín hữu, đặc biệt cho các anh em linh mục là những “người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa” (1 Cor 4,1-2), để trong công việc mục vụ, chúng ta luôn mang chở nơi mình một trái tim giống trái tim của Vị Mục Tử Nhân Lành, là nguyên mẫu cho tất cả chúng ta.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
HÃY SỐNG CHÂN THẬT- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đôi khi tôi vẫn tự hỏi: tại sao Thiên Chúa tạo dựng con người có trí tuệ thông minh, có thể biết mọi sự nhưng Ngài lại không cho con người biết được lòng nhau? Có đôi khi ta vẫn nghe ai đó nói rằng “Tôi đi guốc trong bụng anh đấy!”, nhưng chỉ là “suy bụng ta ra bụng người” chứ chẳng ai đi guốc được trong bụng nhau! Vì con người là một diễn viên tài ba có thể che dấu sự thật về mình.
Thế nên, người đời mới chua cay nói rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”. Con người dường như luôn có bí mật để dấu mọi người. Có khi cả tội lỗi mà chẳng ai nhận ra.
Có một người đàn ông khi hấp hối hỏi vợ:
– Em yêu, trước khi chết, anh muốn biết sự thật và sẵn sàng tha thứ cho em. Thằng thứ tư có phải là con anh không?
– Tất nhiên nó là con anh. Em xin thề!
Người đàn ông lộ vẻ sung sướng và trút hơi thở cuối cùng. Người vợ vừa vuốt mắt cho chồng vừa thở phào:
– May là ông ấy không hỏi mình về ba đứa đầu…
Quả thực giữa muôn loài trong thế gian chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn . . . Chỉ có con người mới có kiểu nói vậy mà không phải vậy nên rất khó biết lòng nhau.
Hôm nay Chúa Giê-su khẳng định: “không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế”. Điều này dường như Chúa muốn nói tội xuất phát từ bên trong. Tội chỉ là hành vi làm điều gì đó có lỗi mà từ trong tâm hồn con người đã nuôi dưỡng. Có khi tội cũng chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng trong tâm hồn những điều bất chính hay những điều ngược với đức ái Ky-tô.
Hôm nay nhân việc các kinh sư trách các môn đệ Chúa không rửa tay trước khi ăn. Đối với người Do Thái việc rửa tay là luật mà họ phải tuân giữ để chứng tỏ mình sạch trước mặt mọi người. Nhưng Đức Giê-su đã cho họ biết thế nào là sạch, thế nào là dơ. Cá có zòi rửa sạch nhưng bên trong đã hư thối. Sạch dơ đều phải dựa vào cái bên trong. Thế nên, cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ. Từ lòng mà sinh ra các tội: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, lăng loàn , . . .
Đức Giê-su không phản đối việc rửa tay trước khi ăn, Người chỉ phản đối thói vụ hình thức, vì họ quá quan trọng cái bên ngoài mà quên làm sạch bên trong. Làm người cần có tấm lòng như Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết rằng: “sống trên đời cần có một tấm lòng”. Một tấm lòng chân thành, biết trao yêu thương. Khi tạo dựng con người Thiên Chúa cũng truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31). Một trái tim biết yêu thương, một tấm lòng chân thành yêu thương nhau. Con người phải để gió cuốn đi tấm lòng yêu thương chân thành đến với tha nhân.
Người ky-tô chúng ta đang sống trong mọi thế giới mà sự lừa dối lên ngôi đến mức cảnh báo ở khắp mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh. Thế giới hôm nay người ta cũng đề cao hình thức nên cũng cố đánh bóng mình bằng nhà cửa, xe cộ, phương tiện đắt tiền để khoe mẽ, để tạo niềm tin cho đối tác nhưng có mấy ai thực sự là sở hữu riêng mà không phải vay mượn.
Một xã hội nặng hình thức và lừa dối cần lắm một đời sống chứng nhân cho sự chân thành và lòng quảng đại không điều kiện của người tín hữu chúng ta. Thiên Chúa biết rõ mọi sự hãy sống dưới cái nhìn của Chúa. Thế nên, hãy sống chân thành với nhau. Vợ chồng đừng che dấu nhau điều gì nhưng luôn cởi mở thân tình. Bạn bè cần sống chân thành để gìn giữ niềm tin cho nhau. Đối tác cần sống thật để cho mối quan hệ làm ăn bền vững . . .
Người Ky-tô hữu mỗi khi đưa tay để đón nhận tình thương và sự thanh sạch của Thiên Chúa nên cũng cần phải thanh sạch từ ngoài đến tâm hồn không hoen ố vấn đục bởi tội lỗi, bởi toan tính thấp hèn. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh sạch trong tâm hồn và chân thành trong đời sống của mình. Amen
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
HÀNH LUẬT- Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Luật lệ ghi dấu khả năng phát triển của xã hội loài người. Luật tự nhiên là tiếng nói trong lương tâm mà Tạo Hóa đã đặt để trong tâm hồn của mỗi người. Từ rất sớm, khi xã hội loài người hình thành và phát triển, các quốc gia và các tôn giáo đã có những bộ luật riêng để hướng dẫn mọi người. Con người sống chung với nhau đã từ từ phát sinh ra nhiều thứ luật lệ để bảo vệ quyền lợi cho nhau và cho xã hội. Trong đạo Do-thái xưa có bộ luật Torah trong Ngũ Thư (Pentateuch). Năm cuốn sách đầu trong Kinh Thánh Cựu Ước (Sách Sáng Thế Ký, Sách Xuất Hành, Sách Lêvi, Sách Dân Số và Sách Đệ Nhị Luật) bao gồm những luật lệ căn bản của dân Do-thái, hiên nay một số đông các cộng đoàn Do-thái vẫn áp dụng.
Chúng ta biết pháp luật là một hệ thống của các qui luật để hướng dẫn con người sống chung trong xã hội. Luật pháp giúp phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội qua nhiều cách khác nhau như một trung gian liên hệ giữa con người. Dân Luật là hệ thống hợp pháp được qui định bởi tòa án của các quốc gia. Luật này được sự đồng thuận của các nhà Lập Pháp riêng mỗi quốc gia. Ngoài những luật riêng của các quốc gia, cộng đồng nhân loại có luật chung quốc tế. Về tôn giáo, có Giáo luật là những luật lệ đặt ra để hướng dẫn các tín đồ trong đạo giáo. Các Điều luật về tôn giáo đặt nền tảng trên những khái niệm về niềm tin trong tôn giáo như Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo và Thiên Chúa Giáo….
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm trong Bộ Ngũ Thư. Người Do-thái và các Kitô hữu tin rằng sách này bao gồm những luật lệ, bài giảng và hướng dẫn dân Do-thái bởi ông Môisen trước khi bước vào miền Đất Hứa. Sách Đệ Nhị Luật gồm ba phần chính: Phần thứ nhất nói về 40 năm ròng rã lữ hành trong sa mạc của dân Do-thái đã chấm dứt, kêu gọi mọi người tiếp tục tuân giữ các giới răn Chúa đã truyền dạy:Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: “Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là một dân khôn ngoan và thông minh!(Đnl 4, 6).Phần thứ hai nhắc nhở người Do-thái đặc biệt tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất và giữ các lệnh truyền để được sở hữu miền đất mà Chúa sẽ đã hứa ban. Phần ba, nếu dân bất trung thì sẽ bị tước đoạt phần đất hứa, nhưng khi dân biết ăn năn sám hối và hoán cải thì mọi sự sẽ được hoàn trả lại. Đây là nguồn an ủi và hy vọng.
Ngoài những luật lệ thành văn, xã hội còn nhiều những điều luật riêng tư như tục lệ, truyền thống, phép tắc, tập tục, thói quen, lệ làng và cả hủ tục… Xã hội càng văn minh càng có thêm nhiều luật lệ. Luật như những hàng rào để bảo vệ môi trường an toàn chung quanh và quyền lợi lẫn cho nhau. Luật làm ra để bảo vệ sự sống và quyền sống của con người. Nếu có những luật lệ đi ngược với những quyền thiêng liêng, giới hạn hay hủy hoại sự sống của con người, không buộc lương tâm con người phải chấp hành. Chúng ta còn có một luật có giá trị hơn, đó là luật lương tâm. Không ai có thể tước đoạt quyền tiếng nói của lương tâm. Cho dù bị tù đầy, khổ ải, đánh đập và giết chóc cũng không thể áp đặt. Đây là giá trị tự do cao quí nhất của con người. Mẫu gương của các đấng tử đạo vì niềm tin, thà chết chứ không chối Chúa, không bỏ đạo và không dẵm đạp lên thánh giá.
Khi Chúa Giêsu ra rao giảng, Ngài đã đối diện với xã hội con người với cách sống và tập tục của tiền nhân qua bao đời để lại. Có những tập tục đã trở thành thói quen được lặp đi lặp lại mà không mang ý nghĩa nội tâm:Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ đồng (Mc 7, 3-4). Các Luật sĩ ghi chú và áp dụng thật tỉ mỉ những khoản luật này. Họ đặt lên vai dân chúng những gánh nặng của lề luật. Dựa vào những luật lệ do các luật gia đặt ra để tìm phạt vạ và bắt bẻ những người phạm lỗi. Các Biệt Phái và Luật sĩ hỏi Chúa Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa? (Mc 7, 5). Để trả lời cho họ, Chúa Giêsu đã đưa họ trở về nguồn là các giới răn của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu dẫn chúng ta đi vào chính trong tâm hồn, nơi phát sinh điều lành và dữ. Tâm hồn như tâm địa là nơi được gieo trồng điều thiện cũng như điều ác. Việc thiện phát xuất từ tâm tốt. Trong cõi tâm có thiện tâm, đạo tâm và chánh tâm. Cõi tâm có mặt trái là tà tâm, ác tâm, nhẫn tâm và đưa đến khổ tâm. Thiện tâm sẽ hun đúc điều lành và việc tốt. Chúa Giêsu nhìn thấu tâm hồn con người và Ngài đã vạch ra những tà tâm từ tận sâu đáy lòng: Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7, 21-22). Đúng thế, đôi khi chúng ta đánh giá con người theo sự xuất hiện hình thức bên ngoài. Chúng ta đâu thấu hiểu được nội tâm sâu kín. Người ta thường nói:Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng. Rất nhiều khi chúng ta sống như đóng kịch, đối xử gian dối và sống giả hình. Bên ngoài thì chăm chăm chú chú nguyện cầu, nhưng trong lòng đầy những uẩn khúc giận hờn, ghen ghét và thù nghịch.
Chúa Giêsu phơi bầy sự thật của lòng người, Ngài nói:Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế (Mc 7, 23). Những điều xấu xa là từ bên trong tâm là tham thân si, ý nghĩ, ước muốn, lời nói và hành động xấu phát xuất ra. Các con ma quái dị rình rập bên cạnh để kéo lôi chúng ta như tài, sắc, danh, thực và thùy (ngủ). Ngũ dục này giống như con đẻ nằm sẵn trong tâm, chỉ chờ cơ hội là xuất đầu lộ diện. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự thật trong sáng của tâm hồn. Chúng ta phải tu tâm, tu thân và dưỡng tánh thường xuyên. Như Chúa căn dặn các môn đệ là hãy cầu nguyện luôn để khỏi sa chước cám dỗ. Phấn đấu với sự yếu đuối của bản thân là một trận chiến đấu không ngừng.
Thánh Giacôbê tông đồ khuyên dạy chúng ta: Mỗi người phải mau nghe, đừng vội nói, và khoan giận vì khi nóng giận, con người không thực thi đường lối công chính của Thiên Chúa (Giac 1, 19-20). Mau nghe, chậm nói và khoan giận là sự khôn ngoan. Giacôbê đã chia sẻ những kinh nghiệm sống thật mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Sự hài hòa và nhẫn nại luôn là những hoa trái tốt lành cần được đón nhận và trân quí. Mỗi người chúng ta đều mong cầu có được một cuộc sống hạnh phúc và an lạc. Chúng ta phải tự cố gắng xây đắp cho chính cuộc đời của mình. Không gieo thì sẽ không có gặt. Khi chúng ta làm việc lành phúc đức, phúc đức sẽ báo đáp. Giáo Hội đã giới thiệu cho chúng ta những huấn lệnh, giới răn và những mối phúc như Mười Điều Răn, thương người có Mười Bốn Mối và Tám Mỗi Phúc Thật…
Lạy Chúa, mọi giới luật đều qui tóm về hai giới răn trọng, đó là mến Chúa và yêu người. Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em không phải bằng môi miệng nhưng bằng chính trái tim cảm mến. Chúng ta có thể làm được mọi việc mà nếu không có lòng mến, tất cả trở thành vô ích. Chúng ta hãy xin cho hạt giống yêu thương nẩy nở và sinh hoa kết qủa trong tâm hồn. Thánh Giâcôbê mời gọi: Hãy khiêm tốn đón nhận lời đã được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em (Giac 1, 21).
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
NÉT ĐẸP VÀ TÂM HỒN- Lm Vũ Xuân Hạnh
Cách đây chừng hơn một tháng, dư luận cả nước xôn xao về một vụ hãm hại người khác mang tính cách gia đình mà mới nghe qua, người ta khó lòng tin đó là sự thật. Cùng lắm nó chỉ có thể xuất hiện trong tiểu thuyết được trí tưởng tượng phi thường của ai đó hư cấu mà có. Có ai ngờ chuyện như tiểu thuyết ấy lại xảy ra thật. Bởi thế, hình như ai nghe cũng sửng sốt, bàng hoàng.
Chuyện tưởng không mà có ấy, chính là câu chuyện về người mẫu Võ Thị Thu Trâm bị chính mẹ ruột của mình đổ dầu sôi vào mặt. Theo báo Công an, sáng hôm ấy, trong khi Thu Trâm còn đang ngủ, mẹ của cô đã đi mua một chai dầu ăn cỡ một lít, mang về nhà nấu sôi khoảng 5 phút, sau đó đem nguyên chảo dầu sôi ấy tưới vào mặt con gái mình. Mẹ mà rắp tâm hãm hại con đã là chuyện quá sức bi đát. Nhưng bên cạnh còn một điều đáng lưu ý hơn, bởi một thái độ quá tàn nhẫn, và thái độ tàn nhẫn đó, lại chính là thái độ của một người mẹ dành cho con mình. Nó làm cho ta nhói đau: Sau khi tưới dầu sôi vào mặt con, bà đã ung dung ra khỏi nhà mua một lố dầu nhị thiên đường, để chuẩn bị khi vào tù, bà có dầu xức vì bà thích xức dầu nhị thiên đường. Người ta tự hỏi, vì lý do nào, một người mẹ rứt ruột sanh ra đứa con của mình nuôi cho nó lớn, nên vóc, nên hình, bây giờ lại tàn nhẫn đến mức không còn một chút lương tâm như thế. Mẹ của Thu Trâm trả lời: Vì tức giận con đã cư xử tệ bạc, vô ơn. Bà buồn con mình đã quên mất người mẹ nghèo tần tảo đã từng lặn lội khắp nơi với gánh ve chai trên vai bất kể mưa nắng, bất kể sự mệt nhọc để nuôi chị em Thu Trâm thành tài: chị cả làm giáo viên, anh hai làm tài xế, và Thu Trâm, một người đẹp đến nỗi có thể bước chân vào nghành người mẫu. Nghe đâu, Thu Trâm còn được đề cử tham dự cuộc thi “Hoa hậu liên lục địa”. Vậy mà đã có lần, bạn bè tới nhà chơi, Thu Trâm xấu hổ không dám giới thiệu mẹ của mình.
Đi từ câu chuyện nhỏ bé trong cuộc đời như thế, tôi lại bắt gặp Lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng Chúa nhật XXII hôm nay: “Hết thảy các ngươi hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế”. Bạn có thấy câu chuyện của hai mẹ con Thu Trâm là một sự dữ lớn không? Sự dữ lớn ấy chính là do tận đáy lòng người ta mang đầy sự kiêu ngạo, sự khinh dể người thân của mình, hơn nữa đó lại là người đã từng rứt ruột sinh thành và dưỡng dục mình. Đó cũng là sự oán hận chất chứa bấy lâu trong tâm, nó đã bào mòn tình mẹ con cho đến mức phát triển thành nỗi căm thù và đan tâm trả thù của một người mẹ. Có lẽ hành động tàn nhẫn ấy của một người mẹ là kết thúc của một quá trình mâu thuẫn kéo dài mà bà đã không thể vượt qua. Sự ác đã hình thành trong lòng của một người mẹ. Nhưng một cách nào đó, khi bỏ rơi mẹ mình, trước hết, sự ác cũng đã xuất hiện trong lòng của một người con. Suy nghĩ như thế, sao tôi thấy Lời Chúa Giêsu nói hay quá, đúng quá: “Từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăn loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. Đúng thế, trong tâm người ta toàn sự dữ, thì hành động của họ nguy hiểm khôn lường.
Vẻ đẹp trong tâm hồn là vẻ đẹp quý giá. Đẹp trong tâm hồn là nét đẹp không dễ gì nhìn thấy. Người ta chỉ có thể nhận ra một tâm hồn đẹp qua kết quả của đời sống nơi một ai đó. Đó mới chính là vẻ đẹp cần thiết làm cho con người nên cao trọng, đáng quý, đáng yêu. Đức tin là vẻ đẹp của tâm hồn. Và đức tin cũng không thể nhìn thấy, nếu không có kết quả bằng chính cuộc sống của mỗi người. Và nếu đức tin của ta vững mạnh, dù cho cuộc đời có vùi giập, cái chết oan nghiệt đến ngay trước mắt, hay kẻ thù có kề dao tận cổ, hoặc cám dỗ bởi phù phiếm, sa hoa, ngay cả tội lỗi đi nữa, ta vẫn cứ là một người không dễ lay chuyển, vẫn một lòng kiên trung, một lòng vươn lên sống thánh thiện. Chỉ sợ lòng ta yếu tin, cho nên ta nghi ngờ tình yêu của Chúa, ta thất vọng vì phải đương đầu với sóng gió trong đời mình. Chỉ sợ rằng ta đã đánh mất vẻ đẹp của lòng tin trong tâm hồn, vì thế không còn đủ sức, không còn can đảm chống lại cám dỗ của cuộc đời, cám dỗ của tội lỗi và của chính bản thân ta. Khi không đủ sức để vương lên sự thánh thiện, quả là ta đã thành ra một kẻ đầy nguy hiểm. Lúc đó chính là lúc rất thuận tiện để vi khuẩn của tội lỗi dễ bề đánh gục ta. Nó tấn công vào chính đời sống đức tin, làm cho ta trở nên yếu nhược. Và khi đó, không cần phải có bất cứ một lực xấu nào tác động, trái lại ngay tâm hồn của ta đã có sẵn cả một ổ vi khuẩn của tội đầy nguy hiểm. Chính vì sự nguy hiểm khôn cùng của nó mà Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh báo: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu, ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăn loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế”. Nói những lời này, Chúa Giêsu đòi phải có vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của đức tin, của sự thánh thiện, từ đó cuộc đời ta sẽ tỏa sáng lung linh bằng tất cả những gì là lành thánh, là phù hợp thánh ý Chúa, là sự trong sạch của tư tưởng, sự thành thật của lời nói, sự trung tín trong từng hành động. Nói một cách ngắn gọn, đó là tất cả hương thơm của vẻ đẹp tâm hồn. Chúa Giêsu đòi hỏi điều đó nơi chính bạn và chính tôi khi nói những lời như trên.
Từ câu chuyện ngoài đời thực về cô người mẫu Võ Thị Thu Trâm, không những nó soi sáng để dễ hiểu hơn Lời Chúa nói hôm nay, bên cạnh đó, nó còn cho ta một bài học về lòng hiếu thảo, về sự tha thứ, nhất là thái độ cảnh giác về sự dữ trong chính tâm hồn ta. Từ câu chuyện ngoài đời thực đến Lời Chúa mà bạn vừa cùng tôi suy niệm giúp ta mỗi một lần cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha, sẽ ý thức hơn về điều mà mình nguyện xin: “Xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Sự dữ mà ta xin Cha thương cứu đó là tội lỗi, là hành vi và hậu quả của tội. Hoặc không phải là tội thì cũng là những rủi ro bất trắc xảy đến với ta. Nếu sự dữ bên ngoài ta, ví dụ: Tôi biết tôi sẽ chết, cái chết làm tôi kinh hãi, thì sự dữ khách quan ấy, đã đáng sợ, nhưng vẫn chưa đáng sợ nhất. Điều đáng sợ nhất là sự dữ nội tại trong ta. Chính sự dữ này biến ta thành kẻ nô lệ tội lỗi, thay vì phục vụ sự sống, có khi ta lao thân phục vụ cái chết, ném mình vào những đam mê hèn hạ, Bởi thế mỗi lần cầu nguyện: “Xin cứu con cho khỏi sự dữ”, là chính lúc ta xin Chúa gìn giữ mình thoát khỏi mọi nguy hại, đúng như Lời Chúa Giêsu hôm nay: “Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế”.
Để cho mình bị ô uế tận trong lòng là một nguy hiểm lớn. Chỉ có vẻ đẹp trong lòng mới là vẻ đẹp của tình yêu, của sự thánh thiện. Bởi thế ta xin Chúa cứu thoát mọi sự dữ để tâm hồn ta luôn là tâm hồn đẹp.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
TẬP TỤC VÀ LỜI CHÚA- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ
Có những người chẳng để ý đến lề luật, nên không tôn trọng quyền lợi người khác; nhưng cũng có những người quá để ý đến luật, đến trở thành nô lệ lề luật. Đức Yêsu trách một số người thời đó “bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
Lời Thiên Chúa và lời con người
Thiên Chúa đã ban mười điều luật cho dân Israel qua Môsê, và ông đã dạy dân Do Thái: “các ngươi chớ thêm bớt điều gì trong các điều ta đã truyền, nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà ta đã truyền cho các ngươi”. Đừng thêm và cũng đừng bớt vào những điều Thiên Chúa dạy. Đừng làm lẫn lộn lời của con người với Lời Thiên Chúa. Chỉ có Lời Thiên Chúa mới phải giữ một cách tuyệt đối, còn lời của con người thì tùy thuộc thời đại và tùy thuộc văn hóa của mỗi dân tộc.
Tuy nhiên, có Lời Chúa nào mà không phải là lời của con người? Để con người nghe được Lời Chúa, thì Lời Chúa cũng phải là lời của con người, phải được truyền qua trung gian con người. Để dân có thể nghe được Lời Chúa, Lời Chúa đã qua trung gian là lời Môsê. Lời của Môsê nhưng không phải là lời của Môsê, nên Môsê cũng phải phục tùng Lời Chúa mà Môsê đã được trao để truyền lại cho dân.
Vấn đề chính yếu là phải nhận định được đâu là Lời Chúa và đâu là lời của con người, xét như phương tiện chuyển tải Lời Chúa. Đâu là Lời Chúa, đâu là lời của Môsê, đâu là văn hóa của thời đại chuyển tải Lời Chúa? Thập giới là Lời Chúa, và thập giới cho con người biết con người phải có tương quan như thế nào đối với Thiên Chúa. Vào thời cánh chung, Lời Thiên Chúa đã làm người. Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, nên con người cũng là Lời Thiên Chúa, vì Lời Thiên Chúa đã làm người.
Tập tục con người và giới răn Thiên Chúa
Con người là vật chất và tinh thần. Thân xác vật chất bị giới hạn, nên con người cũng bị giới hạn. Khi Lời Thiên Chúa nhập thể, thân xác giới hạn của con người có thể che khuất làm con người khó nhận ra chân tướng của Lời Thiên Chúa nhập thể; cũng tương tự vậy, lời con người cũng có thể làm lu mờ Lời Chúa khi Lời Chúa được diễn đạt qua trung gian lời con người.
Trong lịch sử, Lời Thiên Chúa đã được con người giải thích, với mong ước con người hiểu biết hơn về Lời Chúa, để có thể sống theo Lời Chúa. Tuy nhiên, vì có quá nhiều những lời giải thích nên người ta không còn nhận ra đâu là điểm chính yếu mà lề luật hay Lời Chúa muốn nói. Rồi tới một mức độ nào đó, người ta lấy những lời dạy của con người và coi đó như là tuyệt đối quan trọng (như thể đó là Lời Chúa). Đó là lý do tại sao Đức Yêsu nói: “Dân này sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Vì các ngươi bỏ qua giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.
Con người phải được thanh tẩy liên tục để có thể nghe được Lời Chúa nói với mỗi người, và giữ mình khỏi bị ràng buộc bởi những lời giải thích Lời Chúa và luật Chúa. Truyền Lời Chúa lại cho con cháu, đó là bổn phận mà mỗi người thực thi. Tuy nhiên, con người phải phân biệt Lời Chúa và những giải thích về Lời Chúa. Cần thiết phải giữ Lời Chúa, chứ không phải giữ tập tục của con người. Thiên Chúa luôn muốn điều tốt lành cho con người, nên Lời Thiên Chúa làm con người được giải phóng khỏi mọi ràng buộc, giúp con người tự do và sống hạnh phúc với Thiên Chúa; ngược lại, tục lệ con người làm người ta trở thành nô lệ. Không được nhân danh Lời Chúa để bắt con người trở nên nô lệ cho những điều thuộc trần thế.
Thiên Chúa Đấng ban luật lệ cho con người
Luật Thiên Chúa ban cho con người, không phải để cưỡng ép con người, nhưng để giúp con người được tự do thực sự. Con người có thể bị ràng buộc bởi lòng ham mê tiền bạc, lòng ham mê sắc dục, sợ chết, v.v. Mười Lời (thập giới) được ban cho con người, giúp con người nhận ra mình bị nô lệ khi thấy mình đã vi phạm thập giới. Luật Chúa là dấu chỉ cho con người biết về chính mình.
Đấng ban luật cho con người, là Đấng muốn con người được tự do. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muốn loài, Ngài là chủ, là vua. Ngài không nô lệ bất cứ điều gì nhưng tự do với tất cả để yêu thương. Thiên Chúa yêu thương, và muốn con người nên giống Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người làm chủ tất cả, tự do với tất cả. Thiên Chúa muốn con người sống hạnh phúc như Thiên Chúa.
Khi con người còn quy tất cả về chính mình, thì con người chưa thể yêu thương thật sự. Khi con người muốn đặt mình trên tất cả, thì con người chưa thực sự được tự do. Yêu thương và phục vụ, là dấu chỉ của một người đang trở nên giống Thiên Chúa. Hạnh phúc không thể có được chỉ bằng thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Hạnh phúc đòi hỏi điều gì thâm sâu hơn, và chính Đức Yêsu đã sống hạnh phúc trong chính cuộc đời dương thế của Ngài. Hạnh phúc của Đức Yêsu, liên hệ đến tất cả con người của Ngài, và là tình trạng mẫu mực con người phải đạt. Khi đó con người sống an bình và hòa hợp với Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Tự do nội tâm là gì? Bạn có bị ràng buộc bởi điều gì “bất chính” không?
Theo bạn, luật lệ đời giúp gì cho con người? Luật Chúa giúp gì cho con người?
Với bạn, bạn cần tự do để yêu thương, hay chính khi bạn yêu thương thì bạn tự do?
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
ĐẠO TẠI TÂM – Lm Anphong Trần Đức Phương
Khi nói “Đạo tại tâm”, chúng ta thường hiểu theo ý nghĩa giữ đạo do tự trong lòng, chứ không hệ tại ở những việc làm bề ngoài. Chúng ta cũng thường kết án những người ‘giữ đạo bề ngoài’ mà tâm hồn thì trống rỗng, không thành thật; đó là “giả hình” hoặc “Pharisêu”. Thật ra, “Đạo tại tâm” không phải chỉ giữ ở trong lòng mà không cần giữ các lề luật bên ngoài, dù đó là luật đạo hay luật đời; nhưng “Đạo tại tâm” là “sống đạo và thực hành các giới răn của Chúa” với cả tấm lòng của chúng ta, chứ không phải chỉ để phô trương bề ngoài. Sống đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn của Chúa, và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật.
Danh từ “Pharisêu” chỉ một nhóm người trong đạo Do Thái xưa. Họ thật sự là những người muốn tuân giữ chặt chẽ các lề luật Chúa do Môisê truyền lại, như chúng ta thấy trong Bài Đọc I hôm nay (Sách Đệ Nhị Luật 4: 1-2, 6-8): “Anh em chớ thêm bớt điều gì trong các điều mà tôi đã truyền cho anh em… Anh em hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa anh em… Anh em phải tuân giữ và thực hành…” Tuy nhiên, có nhiều người quá câu nệ vào hình thức bề ngoài, và cũng có nhiều người thích phô trương ra ngoài để chứng tỏ ta đây là người đạo đức, là những người biết sống theo lề luật cha ông để lại, nhưng trong lòng họ lại đầy những nham hiểm, mưu kế, dối trá, thù hận: “Họ làm mọi việc chỉ cốt để thiên hạ thấy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài!…” (Đúng là ‘thích khoe quần, khoe áo!’) (Matthêu 23: 25-28, Luca 11:39-44).
Những người “Biệt Phái” (tức Pharisêu) và Luật sĩ thời Chúa Giêsu thường hay rình mò và xét đoán các hành vi của Chúa và các môn đệ, và chỉ trích Chúa Giêsu và các môn đệ là những người ‘phá luật lệ’. Hôm nay, trong bài Phúc Âm (Matcô 7: 1-8, 14-15, 21-23), nhóm Biệt phái và Luật sĩ chỉ trích môn đệ của Chúa là “ăn uống với những bàn tay không trong sạch vì không chịu rửa tay trước khi ăn như luật lệ dạy…” Nhân dịp này, Chúa Giêsu muốn dạy họ một bài học thực tế về việc ‘giữ luật’ không nên quá câu nệ vào hình thức bề ngoài, nhưng quan trọng là do tự trong lòng (Đạo Tại Tâm). Chúa Giêsu không phá luật lệ Cha Ông để lại: “Con Người đến không phải để phá bỏ luật lệ, nhưng để kiện toàn!”. Cứ lo “rửa tay, rửa chén, rửa bình” mà không lo sống đạo đức thực sự thì thật là cách giữ đạo bề ngoài, là gỉa hình, như Thiên Chúa đã nói về họ qua lời tiên tri Isaia: “Dân này kính Ta bằng môi, bằng miệng mà lòng chúng xa Ta!” (Isaia 29:13). Nhân tiện, Chúa Giêsu cũng bảo họ: “Đừng bỏ giới răn Chúa để chỉ nắm giữ những luật lệ bề ngoài, vì sống đạo là thực thi giới răn Chúa, xa lánh tội lỗi như: ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, tỵ hiềm, ngạo mạn, ngông cuồng!…” (Matcô 7: 21-23).
Thánh Giacôbê trong Bài Đọc II (Giacôbê 1: 17-18, 21-22, 27) cũng nhắn nhủ chúng ta sống đạo bằng cách thực hành, đó là xa tránh tội lỗi và thực hành Đức Bác Ái: “Anh em hãy tẩy trừ mọi điều ô uế, gian ác… Anh em hãy mau mắn lãnh nhận Lời Chúa và đem ra thực hành, chứ đừng nghe xuông… Hãy giữ lòng mình khỏi mọi ô uế ở đời này… Hãy thăm viếng cô nhi, quả phụ trong cơn quẫn bách…”
Tác giả Thánh Vịnh 14 trong Bài Đáp Ca hôm nay cũng chỉ cho chúng ta biết thế nào là sống đạo thực sự: “Ai sẽ được sống trước Nhan Thánh Chúa: Đó là những người thanh liêm và và thực hiện điều công chính, trong lòng luôn suy nghĩ điều ngay, lưỡi không bịa lời vu khống, không làm điều sai trái cho người anh em, không nhục mạ những người lân cận, coi thường những kẻ bất nhân, mến yêu những người biết tôn thờ Chúa; đó là những người không xuất tiền đặt nợ thu lời, không ăn hối lộ để làm hại những người hiền lương. Những người thực thi những điều đó thì muôn đời đứng vững, không bị lung lay!”
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện xin Chúa là Cha nhân từ tha thứ mọi lỗi lầm của chúng ta trong quá khứ, giúp chúng ta thật lòng ăn năn chừa cải. Xin Chúa cho chúng ta sống đạo với cả tâm hồn chúng ta, với lòng yêu mến Chúa và yêu thương mọi người. Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh là những vị đã thành tâm sống đạo và đã nên Thánh sau cuộc đời gian nan trần thế, chuyển cầu cho chúng ta. Trong “Năm Linh Mục” này, chúng ta cũng tiếp tục cầu nguyện nhiều cho các Chủ Chăn, các Linh mục luôn được lòng nhiệt thành phục vụ Chúa và mọi người. Xin đặc biệt cầu nguyện nhiều cho các Chủ Chăn, Linh Mục đang gặp nhiều khó khăn, thử thách; nhất là ở Việt Nam hiện nay.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
CỘI NGUỒN CỦA SỰ ÁC- Lm Inhaxiô Trần Ngà
Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu người ta hô: “đả đảo bom giết người!”
Sau đó, trong đám đông tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: “Làm gì có bom giết người! Bom đạn có giết ai đâu? Chỉ có những con người ác tâm tạo ra bom đạn, rồi đem bom bỏ lên đầu người khác mới gây nên tội giết người.”
Thế là sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: “Đả đảo những kẻ giết người!”
Nhưng rồi lại có người bàn thêm: “Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có động cơ nào đó thúc đẩy mới có chuyện giết người. Nếu không có lòng tham lam, ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào có ai lại đi giết người?” Nhiều người đáp lại: “Chí lý! Chí lý!”
Thế là cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: “Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo lòng ghen tị! Đả đảo lòng hận thù!” (dựa theo Cha Anthony de Mello)
Thưa quý ông bà anh chị em,
Chính những dục vọng đen tối trong lòng người mới là nguyên nhân chính gây nên mọi xấu xa trong cuộc đời.
Vì chưa hiểu điều nầy, những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu cứ lo rửa cho sạch bên ngoài mà không lo rửa sạch nội tâm. Họ luôn rửa tay trước khi dùng bữa, hô hào mọi người hãy làm như họ, cho rằng đó là việc quan trọng cần làm và họ trách các môn đệ Chúa Giêsu vì các ông nầy bỏ qua tập tục đó.
Nhân cơ hội đó, Chúa Giêsu dạy cho các ông một bài học: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: 15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. 21 Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, 22 ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. 23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”
Để hiểu rõ hơn bài học nầy, chúng ta hãy nhìn lại trường hợp Cain và Aben. Cain và Aben là hai anh em ruột thịt hằng ngày vẫn thường yêu mến nhau, vui đùa với nhau, hoà thuận với nhau.
Thế rồi, sau khi thu hoạch hoa màu lợi tức, hai anh em cùng nhau dâng của lễ đầu mùa lên Thiên Chúa. Thiên Chúa nhận lễ vật của Aben mà từ khước lễ vật của Cain.
Thế là từ đó, trong lòng Cain phát sinh một mối ghen tị, hận thù. Lòng ghen tị lớn dần lên lấn át cả tình anh em ruột thịt khiến Cain dụ em ra đồng và xông vào đánh chết người em.
Chính lòng ghen tị trong tâm hồn Cain là nguyên nhân chính xui khiến anh giết chết Aben.
Một trường hợp tương tự khác là vua Sao lê và Đavít.
Thời ấy, Gô-li-át là kiện tướng của quân Philitinh, một con người khổng lồ lại có sức mạnh vô địch khiêu chiến với người Israel. Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en không ai có thể đương đầu được với con người khổng lồ ấy.
May thay, Đavít xuất hiện kịp thời. Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi dùng chính gươm của y mà chặt đầu y. Thừa cơ hội tốt, quân Israel xông lên đánh tan quân địch không còn manh giáp.
Dân chúng Israel tuôn ra đường tung hô ca tụng vị anh hùng trẻ tuổi Đavít. Họ ca lên rằng: “Vua Sao-lê giết được một ngàn, còn Đavít giết được hàng vạn”.
Lời ca tụng đó vẳng đến tai vua Sao-lê. Lòng ghen tị xuất hiện và nung nấu tâm hồn ông. Thế là vua thay lòng đổi dạ: trước đây vua yêu thương Đavít bao nhiêu thì giờ đây vua căm thù Đavít bấy nhiêu. Nhà vua bất thần lấy giáo phóng vào Đavít khi cậu gảy đàn cho vua nghe. Đavít lách mình tránh thoát cái chết trong gang tấc. Sau đó vua đem quân truy lùng tận những hang núi sâu để tiêu diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm nầy.
Đúng là những gì xấu xa bên trong lòng người mới làm cho người ta ra nhơ uế.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu tận đáy lòng mình để quan sát những ham muốn xấu xa, những kiêu căng và ghen tị, những tham lam và thù ghét đang âm ỉ trong lòng. Chính những thứ đó mới là nguyên nhân gây nên tội ác, tạo nên mọi điều xấu xa.
Nếu chúng ta không nhận diện được chúng, không nhổ bỏ chúng khỏi tâm hồn mình, thì dần hồi chúng sẽ lớn dần lên và xô đẩy chúng ta vào tội ác, khiến tương quan giữa chúng ta với người khác ngày càng tồi tệ, làm cho đời sống thiêng liêng của chúng ta suy sụp hoàn toàn.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LUẬT CHÚA BAN HÀNH NHẰM THĂNG TIẾN ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI- Lm. Trần Bình Trọng
Luật Chúa được ban hành là để hướng dẫn đời sống con người và nhắc nhở cho loài người bước đi theo đường lối chính trực nhằm thăng tiến hoá đời sống con người. Như vậy mục đích của việc giữ luật là nhằm giải phóng con người khỏi sống theo bản năng và khỏi áp dụng luật rừng. Trong bài trích sách Đệ nhị luật, Môsê nhắc nhở cho họ: Hãy tuân giữ những mệnh lệnh của Chúa là Thiên Chúa chúng ta mà tôi truyền cho anh em (Đnl 4:2). Theo ông Môsê thì nhờ việc giữ luật, họ sẽ được các dân tộc coi là khôn ngoan và thông minh (#nl 4:6) vì họ có Chúa ở gần kề và hướng dẫn đời sống họ.
Tuy nhiên nhóm người Pharisêu và kinh sư lại toan đè nặng trên dân chúng với nhiều khoản luật chi tiết của tiền nhân. Theo Phúc âm thì nhóm người Pharisêu là phe biệt phái, nằm trong Do thái giáo. Theo sử gia Josephus, có chừng sáu ngàn người Pharisêu thời vua Hêrôđê. Họ thường phê bình chỉ trích, bắt bẻ và chống đối Đức Giêsu và các môn đệ. Thánh Phaolô tông đồ là cựu thành viên của phái Pharisêu. Ông Nicôđêmô (Ga 3; 7:45-48) và ông Ga-ma-li-ên (Cv 5:34) cũng là người Pharisêu. Còn nhóm kinh sư là những học giả và trí thức trong đạo Do thái, được nhận tước hiệu ráp-bi hoặc người chỉ đạo. Họ không thuộc phe đảng nào. Tuy nhiên trong thực tế, nhiều người kinh sư thuộc phái Pharisêu nên họ cũng tỏ thái độ và hành động chống đối Chúa như phái Pharisêu.
Trong Phúc âm hôm nay, hai nhóm Pharisêu và kinh sư quan sát thấy vài môn đệ của Đức Giêsu dùng bữa mà không rửa tay nên bèn thắc mắc, đặt vấn đề với Chúa. Mối bận tâm của họ không có liên quan đến vấn đề vệ sinh, nhưng chỉ là hình thức đạo đức bề ngoài. Họ nhấn mạnh đến việc rửa tay cho được sạch bên ngoài, mà không quan tâm đến việc tẩy rửa tâm hồn bên trong. Việc rửa tay bên ngoài của họ là một việc làm trống rổng, không có ý nghĩa và không có giá trị thiêng liêng. Vì thế Đức Giêsu cảnh giác thái độ giả hình của họ vì họ giữ luật vụ vào hình thức bên ngoài.
Theo luật truyền khẩu và tập tục Do thái trong sách Tan-mút thì nghi thức rửa tay trước khi ăn không buộc hết mọi người, mà chỉ có hàng tư tế mới phải theo. Sách Tan-mút sưu tầm luật truyền khẩu và tập tục Do thái không được ghi trong Bộ luật viết ra của sách luật Tora, cũng gọi là sách Ngũ kinh, là năm cuốn sách đầu của Kinh thánh Cựu ước. Theo nghi thức rửa tay được kể lại trong sách Tan-mút, thì nước phải đổ trên mỗi tay hai lần. Lượng nước cũng được qui định đổ cho tới cổ tay. Tại Galilê, vì thiếu nước nên người ta thường bỏ qua việc rửa tay trước khi ăn. Tuy nhiên nhóm người Pharisêu và kinh sư từ Giêrusalem lên vẫn đòi phải áp dụng luật này.
Đức Giêsu cảnh giác nhóm người Pharisêu và kinh sư vì họ đã đi lạc đường lối, toan nô lệ hoá con người bằng việc giữ tập tục của tiền nhân. Họ giữ luật theo hình thức bên ngoài, mà tâm hồn họ xa Chúa và họ còn sống đời bất công. Do đó Đức Giêsu cảnh giác họ: Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm (Mc 7:8a). Người còn trích lời ngôn sứ Isaia để quở trách họ: Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mc 7:6).
Chúa Giêsu còn dùng cơ hội này để cảnh giác dân chúng và các môn đệ là chỉ có gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế như: Những ý định xấu, tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ bánh, kiêu ngạo, ngông cuồng (Mc 7:21-22).
Lời Chúa cảnh giác nhóm người Pharisêu và kinh sư trong Phúc âm phải nhắc nhở ta dùng những cơ hội có thể để tự xét và tự kiểm. Kết quả của việc tự xét và tự kiểm về đời sống nội tâm, có thể làm ta hài lòng hay trách mình. Tuy nhiên ta phải trung thực với lòng mình, nghĩa là phải biết chấp nhận sự thực về mình dù sự thật có đau lòng. Nếu tự xét, ta có thể khám phá ra thái độ giả hình của người Pharisêu và kinh sư cũng có thể ăn rễ sâu trong đời sống đạo đức của ta. Ta có thể tuân giữ luật Chúa mà không phát xuất từ nội tâm, không do lòng mến thúc đẩy, như là giữ luật Chúa vì sợ tội hoặc giữ luật Chúa để được tiếng khen là mình đạo đức chứ không phải do lòng mến.
Giữ luật theo kiểu người Pharisêu và kinh sư khiến người ta trở thành nô lệ cho luật, làm cho đời sống trở nên cằn cỗi. Giữ luật vị luật khiến cho luật trở thành bất động và bất biến. Giữ luật vì yêu mến thì luật sẽ trở thành luật biến đổi, luật trổ bông. Việc giữ luật như vậy có tính cách biến đổi, mang lại hoa quả thiêng liêng cho đời sống. Đối với người con thảo có tâm hồn đạo hạnh thì việc tuân giữ luật Chúa và tìm sống theo thánh chỉ của Chúa phải là khát vọng của họ. Và phần thưởng dành cho người tuân giữ giới răn Chúa và sống theo thánh chỉ của Chúa là có được tâm hồn bình an và thư thái trong cõi siêu việt.
Lời cầu nguyện xin cho tâm hồn và đời sống được biến đổi trong việc tuân giữ giới răn:
Lạy Chúa là Thiên Chúa, Đấng thông biết mọi sự,
và thấu suốt cõi lòng người.
Chúa là Đấng đáng tôn thờ, chúc tụng và yêu mến.
Xin tha thứ những lần:
con chỉ thờ Chúa bằng môi miệng bên ngoài,
mà lòng thì xa Chúa.
Xin giúp con làm mọi việc vì yêu mến Chúa
đễ lời cầu nguyện của con được đi đôi với việc làm,
cho đời sống con được thăng tiến hoá. Amen.
*******
Lạy Chúa là Đấng thông biết mọi sự, Chúa thấu suốt lòng con. Chúa là Đấng đáng tôn thờ, chúc tụng, ngợi khen và cảm mến
Xin tha thứ
* những lần con chỉ thờ Chúa bằng môi miệng bên ngoài, mà lòng con xa Chúa,
* những lần con cầu nguyện cách máy móc mà thiếu tâm tình xác tín.
* những lần con chỉ đóng vai trò bàng quan mà không thực sự tham dự vào việc thờ phượng.
* những lần con tiếc rẻ thời giờ với Chúa bằng cách luôn đi lễ trễ và ra về sớm
Xin tha thứ
* những lần con quá quan tâm đến lỗi lầm của ngưòi khác
* những lần con nhạo cười người khác khi họ bày tỏ đức tin bằng lòng đạo đức chân thành
Lạy Chúa, xin thương xót con theo lượng từ bi của Chúa.
Xin giúp con thiết lập được mối liên hệ gần gũi với Chúa đễ những lời cầu nguyện và ca tụng của con được đi đôi với việc làm.
Xin Chúa đến ngự trị trong tâm hồn con. Xin Chúa là niềm vui, niềm hi vọng và là nguồn ơn cứu độ đời con.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
GIẢ HÌNH (*)- Lm. Giuse Đinh Tất Quý
“Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”. (Mc 7,8)
Ðoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một câu chuyện nhỏ, chuyện những người Biệt Phái và luật sĩ thắc mắc về việc các môn đệ của Chúa không rửa tay theo tập tục của tiền nhân trước khi ăn. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu đã muốn cho mọi người hiểu rằng cuộc sống có những việc còn quan trọng hơn những việc có tính cách tập tục và bên ngoài đó. Và cũng nhân câu chuyện này Chúa còn nói thêm về việc phải sống như thế nào mới là cuộc sống đẹp lòng Chúa và mang lại cho cuộc sống đó nhiều ý nghĩa hơn. Chúng ta tự hỏi Chúa muốn cuộc sống phải như thế nào?
Điều Chúa muốn chắc chắn không phải là cuộc sống sống giả tạo, cuộc sống không có sự ăn khớp giữa bên ngoài với bên trong của một con người.
Trong một chương trình buổi tối trên một kênh truyền hình Hoa Kỳ, một cô gái điếm đã được mời đến phát biểu ý kiến dựa theo một số câu hỏi của những phóng viên. Cô trang điểm diêm dúa và mặc một chiếc váy cực ngắn. Cô đã tỏ ra không những bình tĩnh, mà còn khiêu khích trước những câu hỏi của phóng viên.
Chợt có một phóng viên nhìn thầy trên cổ của cô có đeo một sợi dây chuyền vàng với một cây Thánh giá thật đẹp, anh ta liền thay đổi một đề tài. Anh ta hỏi cô: “Tôi thấy cô đeo Thánh giá trên cổ, hẳn cô là người có Tôn giáo”.
Khán giả thấy rõ sự bối rối xuất hiện trên khuôn mặt cô, vì đây là vấn đề mà cô chưa bao giờ nghĩ tới. Sau một hồi do dự, cô trả lời: “Tôi không theo đạo nào cả”.
Người phóng viên hỏi dồn: “Vậy tại sao cô lại mang Thánh giá trên người?”.
Cô thinh lặng cúi xuống sàn nhà một hồi lâu, rồi trả lời: “Lúc nhỏ tôi có đạo, nhưng đó là chuyện xưa rồi”.
Một con người không còn tin Chúa nhưng vẫn đeo Thánh Giá của Chúa. Rõ ràng đó là việc không hợp lý tí nào. Cuộc sống như thế đáng cho mọi người gọi là cuộc sống giả hình. Và một cuộc sống với những phẩm chất giả tạo như thế nhất định sẽ chẳng đem lại niềm vui nào cho những người sống cuộc sống đó. Chính vì thế mà trong bài tin mừng hôm nay Chúa đã kịch kiệt lên án cuộc sống như thế. “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”(Mc 7,7)
Ngày xưa thì như thế còn hôm nay thì sao?
Chắc anh chị em đã thấy ngày hôm nay người ta nói nhiều tới căn bệnh thành tích, căn bệnh phát sinh từ cuộc sống hình thức giả tạo mà ra. Bao nhiêu hệ lụy xấu xa đã phát sinh từ căn bệnh này thì mọi người chúng ta đã biết. Sống như thế có khác gì ngày xưa và nếu cứ sống mãi như thế thì chắc chắn cuộc sống của chúng ta sẽ không thể tốt đẹp mà ngược lại nó sẽ là một cuộc sống gây nên nhiều đau khổ.
Rồi nhìn vào cuộc sống của thế giới hôm nay chúng ta thấy cũng chẳng kém gì. Đây là những nhận được Internet truyền đi khắp nơi như một hệ lụy của những lối sống mà con người hôm nay đang sống. Bên ngoài thì xem ra thật tốt nhưng nội dung thì có nhiều phải suy nghĩ. Tác giả gọi những nhận xét này là: “Những nghịch lý của thời đại chúng ta”
Chúng ta có những tòa nhà cao hơn, nhưng tư cách những người cư ngụ trong đó thì lại nhỏ hơn. Những con đường cao tốc rộng hơn, nhưng quan điểm của con người thì lại hẹp hòi hơn.
Chúng ta nói quá nhiều, yêu quá ít và ghét quá thường xuyên.
Chúng ta đã đi lên mặt trăng và quay trở về, nhưng lại cảm thấy phiền hà khi băng qua đường để gặp một người hàng xóm mới dọn đến.
Chúng ta làm trong sạch không khí, nhưng lại gây ô nhiễm tâm hồn của nhau.
Chúng ta viết lách nhiều hơn, nhưng học hành thì ít hơn.
Chúng ta dự tính nhiều hơn, nhưng thực hiện ít hơn. Chúng ta chỉ biết vội vã, mà không biết chờ đợi.
Chúng ta có thu nhập cao hơn, nhưng đạo đức thì lại thấp hơn.
Chúng ta trở nên thừa về số lượng, nhưng lại quá thiếu về chất lượng.
Đây là thời cơ có tới hai nguồn thu nhập từ cả hai vợ chồng trong gia đình, nhưng ly dị thì nhiều hơn; Thời của những căn nhà sang trọng, nhưng tổ ấm thì tan vỡ nhiều hơn.
Vâng nếu cuộc sống chỉ là như thế thì thật là tủi nhục cho Thiên Chúa khi Chúa đã cho chúng ta được làm người .
Vậy chúng ta phải sống như thế nào mới đẹp lòng Chúa?
Xin muợn một câu truyện để trả lời. Truyện kể rằng có hai nhà sư, một già một trẻ, cùng nhau đi xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một cô thiếu nữ rất đẹp đứng bên bờ một vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà nhưng không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư già liền bế thiếu nữ lên và đi qua vũng nước và bỏ cô ở phía bên kia. Rồi hai người tiếp tục cuộc hành trình. Trở về gần đến chùa, nhà sư trẻ trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế ?”. Nhà sư già trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, còn anh, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”
Câu chuyện ý nhị trên đã minh hoạ rõ nét ý hai lối thể hiện cuộc sống của mình: Một lối sống đạo theo hình thức và một lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn cứ yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do thái xưa cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những luật lệ theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Đối Với họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch.
Đức Giêsu đã trách họ là giả hình. Họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám, xấu xa.
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phao-lô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài ngưòí và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoang. Giá như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tính đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi đến chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,1-3).
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con biết bỏ đi những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người.
Vì con biết rằng với tất cả tâm tình, con mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa con đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
GIỮ LUẬT VỚI LÒNG MẾN CHÚA- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ Lời Chúa thường niên B năm tuần vừa qua bị gián đoạn bởi chương 6 Tin Mừng Gioan xen vào, hôm nay chúng ta trở lại với chương 7 Tin Mừng Macô, Chúa Giêsu giúp các môn đệ cũng như người đương thời đào sâu ý niệm về sự trong sạch và những luật lệ liên quan. Về vấn đề này, thư thánh Giacôbê trong bài đọc II cũng soi sáng cho chúng ta khi ngài viết : « Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này» (Gc 1,27 ).
Đạo trong sạch
Từ thế kỷ thứ II, người Do thái đưa ra luật cấm không được giao du và ăn uống với dân ngoại, để khỏi bị ô uế. Người Pharisiêu cho rằng tôn giáo của họ phát xuất từ Thiên Chúa, tẩy sạch là một nghi lễ công cộng, “vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước” (Mc 7), thế nên họ chướng tai gai mắt khi thấy môn đệ Chúa Giêsu “dùng bữa với bàn tay không trong sạch” (Mc 7,3). Người Do thái chỉ ăn sau khi đã rửa tay (x. Mc 7,3), các tập tục của họ gắn bó với “truyền thống” (Mc 7,4), thể hiện lòng trung thành với “Thiên Chúa, Đấng ở gần họ” (x. Dnl 4, 7) như Môise đã nói.
Cần phải ghi nhận rằng, Chúa Giêsu không đến để hủy bỏ Lề Luật. Nhưng dạy người ta chống lại thói đạo đức giả hình, vụ hình thức, quan trọng hóa luật lệ của con tim với nghi lễ bên ngoài. Người lên án việc làm khiến người ta xa rời Thiên Chúa, và nghĩ rằng thực hành tỉ mỉ của các quy tắc Luật định là vinh quang ; mặt khác, theo Chúa Giêsu, sự trong sạch không tùy thuộc vào lễ nghi thanh tẩy, nhưng tùy thuộc vào tấm lòng.
Lòng trong sạch
Khi tuyên bố : “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế ” (Mc 7), cái đó không chạm tới lòng người ta, nhưng vào trong bụng và kết thúc trong cống rãnh. Theo Chúa Giêsu, điều gì làm cho chúng ta ô uế : ” Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế”.
Những gì là nhơ bẩn, ô uế, hay những ý định và hành động xấu xa không đến từ bên ngoài, mà đến từ lòng dạ xấu xa và xa rời Thiên Chúa. Thiên Chúa không hiện diện khi lòng người rời xa Chúa.
Tôn giáo được Chúa Giêsu thiết lập không giảm thiểu vào các nghi lễ bên ngoài, gồm một mớ những học thuyết và đạo đức giả ; đây là sự mặc khải về khuôn mặt của Thiên Chúa trong nhân loại nơi con người Chúa Giêsu. Việc thực hành đạo dù lớn hay nhỏ, chỉ có ý nghĩa và có giá trị khi được sinh ra từ tình yêu, được tháp tùng bởi tình yêu và được tiêu thụ trong tình yêu.
Yêu thương là chu toàn Luật Chúa
Tập tục của tiền nhân người Do thái thích giữ với lòng đạo đức ấy lại trái với Luật Môise. Đó là lý do tại sao Êsai nói : “Bạc của ngươi hóa thành ten chì, rượu đã trá pha nước lã” (Is 1,22), cho thấy người xưa kết hợp sống giới luật của Chúa với một truyền thống nhạt nhòa, nghĩa là họ đã thiết lập một luật biến chất trái với Luật Chúa. Chúa Giêsu trách họ : Tại sao các ông phạm đến lệnh truyền của Thiên Chúa nhân lệ truyền của các ông? (Mt 15,3) Họ bỏ qua những điều cần thiết, thêm vào những khoản phụ và giải thích theo lối khác, việc họ làm lột tẩy họ là những kẻ đạo đức giả hình.
Họ cương quyết bảo vệ các tập tục, nhưng không tuân thủ Luật Chúa. Thậm chí họ đổ lỗi cho Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabát khi chữa bệnh, điều mà Luật không cấm. Tuy nhiên, họ không nhận lỗi về mình đã vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa, luật của họ thiếu hẳng tình yêu. Tình yêu này, trên thực tế, là điều răn thứ nhất và trọng nhất, và thứ hai là tình yêu của người lân cận.
Thánh Phaolô cũng nói : Yêu mến là chu toàn cả Lề luật (Rm 13,10) và khi tất cả chỉ còn lại Tin, Cậy, Mến. Ấy là bộ ba! Nhưng trong bộ ba ấy, Mến lớn hơn cả! ( 1Cor 13,13). Và giả như tôi được ơn tiên tri, và biết mọi sự nhiệm mầu, toàn cả trí tri; và giả như tôi được tất cả lòng tin, khiến chuyển được đồi núi, mà tôi lại không có lòng mến, thì tôi vẫn là không! (1Co 13,2). Nếu không có bác ái thì tất cả chỉ là không.
Chính bác ai mang lại sự hoàn hảo cho con người, vì ai yêu mến Thiên Chúa là hoàn hảo trong thế giới hiện tại và tương lai. Vì chúng ta sẽ không bao giờ ngừng yêu mến Thiên Chúa, nhưng hơn thế nữa sẽ chiêm ngắm và yêu mến Ngài đồng thời thương tha nhân.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
TÔN KÍNH BẰNG MÔI MIỆNG- Lm Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
Cuốn Christian Community Bible chú thích đoạn Lời Chúa hôm nay (Mc 7:1) như sau: “Không một nhóm nào, kể cả Giáo Hội, có thể đứng vững mà không có truyền thống tập quán. Nhưng dù tốt đến mấy, các truyền thống này đều do con người tạo ra. Như cách cử hành thánh lễ, các ngày lễ, các tuần cửu nhật v.v…, tất cả những gì một giáo hoàng, một giám mục, một cộng đoàn Kitô hữu đã đặt ra trong quá khứ, thì một vị giáo hoàng khác, một giám mục khác, một cộng đoàn Kitô hữu khác có thể thay đổi được. Chính vì tất cả những điền này có thể thay đổi nên ta hiểu ngay rằng đây không phải là điều chính yếu của đời sống Kitô giáo.” Cũng theo chú thích của hai anh em nhà Hurault, ta đừng lẫn lộn các truyền thống phức tạp, hay nói đúng hơn các tập tục và thói quen trải dài qua các thế kỷ của lịch sử Giáo Hội, với truyền thống của Hội Thánh; “Có một cách thức hiểu Kinh Thánh mà Chúa Giêsu và các Tông Đồ cũng đã hiểu như thế: đó là điều mà người ta gọi là truyền thống các Tông Đồ (Apostolic Tradition). Và Hột Thánh được các Tông Đồ thành lập luôn gìn giữ truyền thống này, tức là Tinh Thần của các Tông Đồ.”
Những lời khảng định trên thật xác đáng và quan trọng. Đức Giêsu và sau đó là các Tông Đồ, đặc biệt Tông Đồ Phao-lô – cách riêng trong thư gửi các tín hữu Ro-ma và Ga-lat – đã không ngừng phân biệt rõ giữ đạo – là giữ các tập tục (mà rất nhiều khi khoác cho danh nghĩa ‘truyền thống’) – với sống niềm ‘tin’ đích thực. “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm”…, như thế giữ đạo có thể khác xa sống đức tin chân chính; “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.”
Đối với người Do Thái của Cựu Ước thì tinh thần kính sợ và tôn thờ Đức Chúa Gia-vê là điều quan trọng hơn hết. Không có tinh thần này thì việc tuân giữ khắt khe mọi lề luật, qui định – điển hình như các luật liên quan tới việc thanh tẩy và ngày Sa-bát – thì cũng kể bằng không… Hoặc cùng lắm, cũng chỉ được coi như nắm giữ các tục lệ – tập quán do con người xuôi dòng lịch sử bày ra mà thôi.
Thế còn đối với Kitô hữu – ta tự hỏi – điều răn Thiên Chúa hay truyền thống Tông Đồ cụ thể là gì? Đức Giêsu, cho dầu tuyên bố không phá bỏ giới răn hay lề luật cũ, đã hơn một lần khảng định điều răn mới mà Người để lại cho các môn đệ chính là giới luật yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là, anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34). Không sở đắc trong thâm sâu cõi lòng giới luật mới này thì việc giữ căn kẽ mọi qui định của Giáo Hội (kể cả việc đi lễ ngày Chúa Nhật hay giữ các ngày chay tịnh) cũng sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Truyền thống Tông Đồ đã không ngừng đề cao điều đó: “Giả như… tôi biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non… mà không có đức mến… thì cũng chẳng ích gì cho tôi.” (1 Cr 13:1-3). Và chính vì để duy trì và phát huy tình mến này trong lòng mà toàn bộ cuộc sống Kitô hữu đều không ngừng qui hướng về hiến tế Thập Giá, nhất là qua việc cử hành Thánh Lễ. Khi dâng lễ, tín hữu cử hành ‘như Thầy yêu thương anh em’ hầu có thể ‘hãy yêu thương nhau’ trong cuộc sống. Một khi đã hiểu được ‘Thầy yêu thương’ như thế nào, và có được ‘đức mến trong lòng’, họ sẽ “cứ yêu đi, và bạn làm gì cũng được ”, như Thánh Âu-tinh đã từng tuyên bố. Tất cả các qui định của Giáo Hội lúc đó sẽ không còn được coi như gánh nặng luật lệ áp đặt từ bên ngoài (không giữ thì mắc tội), nhưng được đón nhận như những chỉ dẫn khơi nguồn tình yêu trong con tim.
Chỉ khi đó, phải, chỉ khi đó mà thôi, các tín hữu mới thật sự hiểu được lời Đức Giêsu đã từng tuyên bố “Thầy đến không phải là để bãi bỏ Luật, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5:17)… Kiện toàn không phải vì khắt khe chi li hơn, nhưng là vì đưa tới sức mạnh tình yêu; và như thế đương nhiên là họ cảm thấy thảnh thơi trong việc giữ đạo, “vì ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11:30).
Thế nhưng chính tôi, sau bao nhiêu năm sống niềm tin Kitô hữu, tôi vẫn chưa cảm thấy hoàn toàn thảnh thơi thoải mái, ấy là vì… tôi chưa có được khả năng thực sự ‘tin và thờ phương Thiên Chúa tình yêu trong tinh thần và chân lý’.
Lạy Chúa! Trong hơn 70 năm cuộc đời, con đã trải nghiệm không biết bao nhiêu là đổi thay về luật lệ, truyền thống và tập tục, về mặt dân sự cũng như Giáo Hội, cả về thời gian lẫn không gian. Phải chăng điều này là một hồng ân Chúa ban, hầu con nhận ra rằng: điều quan trọng hơn hết trong niềm tin Kitô hữu là biết Chúa yêu con và con được sống chan hòa trong yêu thương với hết mọi người? Xin cho con không bao giờ để cho bất cứ điều luật nào lấn lướt luật tình yêu này, và còn dạy cho các tín hữu biết sống như thế nữa. Amen.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
TỪ LÒNG CON NGƯỜI PHÁT XUẤT NHỮNG TƯ TƯỞNG XẤU – Lm. Phêrô Lê Văn Chính
Trong những tường thuật của Tin mừng, chúng ta thường đối diện với thái độ nổi bật của những người biệt phái và ký lục là giới được trọng vọng trong xã hội. Họ xác tín rằng phải chu toàn lề luật bằng việc giữ những ràng buộc chi tiết, nhiều khi chi li vụn vặt, là đủ để được nhìn nhận là người công chính thánh thiện trước mặt Thiên Chúa. Thật ra, giáo huấn chính thống của do thái giáo, đặc biệt từ sách Đệ nhị luật chương 4, đều xác nhận việc cần thiết phải nghe và tuân giữ những điều răn và giới luật, huấn lệnh của Thiên Chúa truyền. Đó là dấu chứng một dân tộc khôn ngoan và sáng suốt giữa những dân tộc khác như lời Môisen nhắc nhở dân chúng : “Các ngươi hãy tuân giữ những giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi. Các ngươi phải tuân giữ và thực hành. Và đó là sự khôn ngoan sáng suốt của các người trước mặt muôn dân”. Xác tín này đã được lưu truyền qua các thế hệ người do thái, và dĩ nhiên đã có nhiều người sống chân thành ngay thẳng thực hành các điều răn và huấn lệnh của Chúa. Thế nhưng, vào thời Chúa Giêsu, người bắt đầu đối diện thực tế với những hạng người có thế giá trong xã hội là những người biệt phái và ký lục. Điểm đặc trưng của những người này là họ rất quan tâm chu toàn lề luật, nhưng lại lệch lạc khi xem việc chu toàn lề luật bằng thái độ vụ luật, nhưng lại thiếu một thái độ nội tâm sâu sắc. Vì thế, trong câu chuyện Tin mừng, Chúa Giêsu và các môn đệ của người gặp khó khăn với những người này. Họ tỉ mỉ quan sát việc làm của các môn đệ của Chúa Giêsu và khi bắt gặp vài môn đệ dùng bữa mà không rửa tay, tức là đã dùng bữa với những bàn tay không thanh sạch, nên họ đã đặt vấn đề với Chúa Giêsu: “Tại sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không thanh sạch”.
Một điều khiến những người biệt phái và ký lục rất an tâm là đã chu toàn lề luật khi họ cẩn thận tuân giữ những tập tục của tiền nhân: cụ thể là việc rửa tay trước bữa ăn, thậm chí là nhiều việc khác nữa như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng và khi đi từ nơi công cộng về, họ phải tắm rửa. Chắc hẳn, đặt vấn đề về thái độ của các môn đệ cũng là một cách đặt vấn đề với chính Chúa Giêsu. Họ cho rằng nếu Chúa Giêsu chủ trương một thái độ như thế, thì người đi ngược lại với những tập tục của tiền nhân, và đây là điều cho thấy sự sai trái của giáo lý của người. Thật ra, những thực hành tỉ mỉ chi tiết này về các bữa ăn bắt nguồn từ luật của Môisen. Sách Lêvi đã đưa ra những cấm đoán này (Lv 11 và 16) nhằm mục đích gìn giữ dân Chúa là dân được tuyển chọn luôn được tinh tuyền, tránh mọi tiếp xúc với những người và những thức ăn bị cho là ô uế. Vì thế, khi từ những nơi công cộng hay phố chợ trở về, những người do thái thường cảm thấy như bị “ô uế” theo luật bởi vì đã tiếp xúc với những người tội lỗi, những dân ngoại. Chúa Giêsu đã phản ứng quyết liệt chống lại thái độ vụ luật giả dối này của những người biệt phái, người phê phán họ chỉ thờ phượng Thiên Chúa ngoài môi miệng nhưng lòng dạ thì xa Chúa. Người trích dẫn sách tiên tri Isaia (29,13), : “Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng nhưng lòng chúng thì xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người”. Lời phê phán của Chúa Giêsu rất nghiêm khắc, và trong bài Tin mừng cho biết, Chúa Giêsu hiểu rõ và nắm vững những tranh luận giữa các bậc thầy do thái về những điểm của luật Môisen nên người đã kết luận về thái độ sai trái của những người biệt phái: “Các ngươì thay thế Lời Chúa bằng những tập tục loài người”. Để giải thích rõ hơn, Chúa Giêsu đã trình bày chìa khóa để giải quyết vấn đề: điều làm cho con người ra “ô uế”, không phải là những thức ăn bên ngoài, nhưng điều làm cho con người ra ô uế, đó là những tư tưởng xấu phát xuất từ lòng người. Từ lòng xấu xa của con người phát xuất những tư tưởng ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, kiêu căng, ngông cuồng. Theo Thánh Kinh, trái tim là nơi phát xuất tư tưởng và tình cảm, trái tim cũng là nơi phát xuất những ý tưởng đồi bại về đời sống luân lý.
Bằng thái độ rất thẳng thắn, Chúa Giêsu tuyên bố những nghi thức cũ đã lỗi thời, và hướng đến một thái độ mới mẻ hơn, giải thoát dân chúng khỏi bị ràng buộc bởi những truyền thống tập tục tiền nhân đã trở nên lỗi thời, và qui hướng mọi người tới tương quan trung thực với Thiên Chúa hơn. Lề luật phải hướng dẫn con người tới tương quan chân thật với Thiên Chúa và người khác. Nếu nghi thức và tập tục không hướng con người tới tương quan chân thật với Thiên Chúa thì cần bỏ đi. Một người nào đó có thể giữ tỉ mỉ tục lệ nhưng lại không chu toàn lề luật Thiên Chúa. Ngược lại, sống đời sống luân lý ngay thẳng là dấu chứng giữ giao ước với Thiên Chúa. Theo ý tưởng của bài đọc I, khi Thiên Chúa giải thoát dân chúng khỏi quân thù của họ thì đó là dấu chứng Thiên Chúa trung tín với giao ước với Israel, ngược lại Israel phải tuân giữ lề luật và huấn lệnh của Thiên Chúa để họ được sống và chiếm hữu phần đất mà Thiên Chúa sẽ ban cho họ, và đó cũng là dấu chứng họ trung thành với giao ước với Thiên Chúa và chứng tỏ cho người khác thấy họ là một dân tộc khôn ngoan sáng suốt. Có được lề luật và huấn lệnh của Thiên Chúa nên Israel luôn được Thiên Chúa hiện diện và che chở, nhất là khi họ kêu cầu Thiên Chúa sẽ lắng nghe và ra tay bênh đỡ họ. Thánh Giacôbê cũng nhắc nhở các tín hữu việc Thiên Chúa muốn sinh ra con người bằng Lời chân thật. Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng, nơi người không hề có sự gian dối cũng như không hề có sự thay đổi. Vậy khi con được sinh lại bởi Lời của Thiên Chúa, con người cũng được tham dự vào những điều tốt lành của Thiên Chúa là thánh thiện và không thay đổi. Để được sinh lại trong đời sống mới này, con người cần lắng nghe và sống theo Lời của Thiên Chúa, và bắt đầu tẩy trừ mọi chiều hướng xấu xa độc ác nơi chính mình, chắc chắn họ sẽ được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- Năm B
LUẬT TÌNH YÊU- Trích Logos B
Vào tháng 7 năm 2006, các cấp lãnh đạo thành phố Đà Lạt đã mở một chiến dịch lớn nhằm làm cho bộ mặt thành phố được sạch đẹp để đón du khách. Họ đã cho treo lên những tấm panô với nội dung: “Chúng ta hãy nói không với những người bán vé số dạo, đánh giầy dạo và ăn xin…”. Sau khi những tấm panô được treo lên, các cấp lãnh đạo của thành phố đã bị dư luận báo chí và quần chúng khắp nơi phản ứng một cách kịch liệt. Công chúng cho rằng không nên có thái độ và lời lẽ xúc phạm đến những người nghèo. Thậm chí có người còn nói : “Chúng ta có thể nói không với ma túy, nhưng lẽ nào chúng ta lại nói không với con người ?”. Có người còn cho rằng : để làm cho thành phố được sạch đẹp, chúng ta không chỉ làm sạch bên ngoài, nhưng hãy làm sạch cả những tệ nạn xã hội, thói “cửa quyền”, hối lộ và tham nhũng đang tác hại từ bên trong.
Trước làn sóng phê bình của công luận, các cấp lãnh đạo thành phố Đà Lạt liền cho hạ các tấm panô xuống và tuyên bố sẽ điều chỉnh lại sự việc trên.
Câu truyện thời sự trên đây đã dẫn đưa chúng ta vào sứ điệp lời Chúa hôm nay. Qua nội dung của lời Chúa trong Tin Mừng theo thánh Marcô, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta đừng quá quan tâm đến hình thức bên ngoài mà quên mất đời sống nội tâm, đừng chú trọng rửa tay chân nhưng hãy chú tâm tẩy rửa tâm hồn.
Khi thấy vài môn đệ Chúa Giêsu dùng bữa mà không rửa tay trước, các biệt phái và luật sĩ đã chất vấn Chúa Giêsu ; sao các môn đệ của Ngài đã không giữ tập tục của tiền nhân. Nhân cơ hội đó, Chúa Giêsu đã dạy họ một bài học : đừng lo giữ tập tục của loài người mà bỏ qua các giới răn của Thiên Chúa, đừng chỉ lo giữ sự thanh sạch bên ngoài, nhưng hãy lo cho mình có một trái tim tinh tuyền.
Đừng chỉ rửa đôi tay …
Khi người Do Thái bị bắt đi lưu đày ở Babylon, phải sống giữa dân ngoại, tiếp xúc với các tôn giáo ngoại lai, nhiều người Do Thái đã bỏ đạo Chúa, thờ các thần ngoại. Trước tình cảnh bi đát đó, các luật sĩ Do Thái đã cứu vãn niềm tin của dân chúng bằng cách đặt ra các luật lệ nghiêm ngặt nhằm bảo vệ đức tin cho dân chúng. Sau cuộc lưu đày trở về, các luật sĩ đã đưa luật lệ đến chỗ câu nệ, vụ hình thức vì quá tỉ mỉ. Có đến hơn 600 khoản luật thật chi tiết nhằm tránh cho dân chúng khỏi tội lỗi, ô uế và xấu xa.
Một trong những khoản luật đã trở thành tập tục mà mọi người phải giữ : đó là phải rửa tay trước khi dùng bữa và người ta không dùng bữa nếu không rửa tay trước. Sở dĩ họ tuân giữ nghiêm ngặt tập tục đó vì họ quan niệm bàn tay hay thân xác sẽ bị ô uế nếu tiếp xúc với người tội lỗi, bệnh tật hay đồ dơ bẩn. Như thế, nếu không rửa tay chân và thân thể, thì sự ô uế sẽ theo thức ăn vào cơ thể và làm ô uế cả con người.
Đáp lại, Chúa Giêsu đã soi sáng cho các biệt phái và luật sĩ thấy tinh thần nệ luật đó chỉ là thói đạo đức giả hình. Chúa đã mượn lời ngôn sứ Isaia để trách cứ họ : “Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta”. Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng tỏ rõ cho người ta thấy cái làm cho con người ra ô uế và bất xứng trước mặt Thiên Chúa không hệ tại bàn tay dơ bẩn, nhưng hệ tại tâm địa xấu xa của con người. Chính tư tưởng xấu xa đã phát xuất ra những hành động xấu xa. Chính dục vọng bên trong đã điều khiển và thúc đẩy hành vi bên ngoài của con người.
Như thế, chúng ta đừng chỉ rửa đôi tay, nhưng hãy thanh tẩy cả cõi lòng nữa. Đôi khi chúng ta chỉ nghĩ đến việc “rửa tay” mà quên mất phải “rửa sạch” cả lòng trí, lương tâm và tư tưởng. Chúng ta cũng đừng chỉ tuân giữ lề luật được ghi trên bia đá hay sách vở, nhưng chúng ta còn phải tuân giữ lề luật ghi trong tâm hồn nữa. Đó là luật của trái tim, luật của tình yêu thương.
… Nhưng hãy rửa cả tâm hồn nữa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi bị các biệt phái và luật sĩ chất vấn về việc các môn đệ không “rửa tay” trước khi ăn, Chúa Giêsu đã đáp lại bằng cách truyền dạy : hãy tuân giữ lề luật của Thiên Chúa hơn là duy trì những tập tục của con người. Nhưng có lẽ lời đáp trả thiết thực hơn, sâu sắc hơn đã được Chúa Giêsu thực hiện sau đó, trong bữa tiệc ly : Chúa đã cúi xuống “rửa chân” cho các môn đệ. Chúa không rửa chân cho các môn đệ trước bữa ăn, nhưng sau bữa ăn để có ý dạy cho các môn đệ một thứ “siêu lề luật”, đó là lề luật của tình yêu, lề luật vượt trên mọi lề luật.
Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nêu ra những cái “bên trong” con người mới làm cho con người ra ô uế : đó là những hành động phát sinh từ những tư tưởng xấu : “ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tỵ, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng”. Tất cả những lỗi lầm đó đều vi phạm đến giới răn trọng nhất, giới răn của tình yêu : đó là giới răn mến Chúa yêu người.
Như thế, thanh tẩy tâm hồn có nghĩa là : không những chúng ta luôn để cho tâm hồn chúng ta tránh xa những “thói hư tật xấu” mà Chúa Giêsu liệt kê trong bài Tin Mừng, nhưng tích cực hơn, chúng ta phải thực thi lề luật yêu thương trong cuộc sống hằng ngày : thay vì chúng ta “rửa tay” theo lề luật cũ của người Do Thái, chúng ta hãy biết “rửa chân” cho nhau theo lề luật mới của tình yêu mà Chúa Giêsu đã truyền dạy.
Trong bài đọc I, trích sách Nhị Luật, dân Do Thái đã hãnh diện vì có Thiên Chúa làm Chúa của họ và vì được Thiên Chúa ban lề luật cho họ. Tuy nhiên, lề luật Thiên Chúa không phải là sợi dây trói buộc con người, làm cho con người trở thành nô lệ, nhưng phải giải thoát và thăng hoa con người. Lề luật chính là “rào cản” giúp con người không ngã xuống vực thẳm của tội lỗi và diệt vong.
Để áp dụng cụ thể, trong bài đọc II, thánh Giacôbê tông đồ kêu gọi chúng ta hãy thực thi luật yêu thương của Chúa bằng việc phục vụ những người nghèo khó, nhất là những cô nhi quả phụ. Đó cũng là lời khuyên nhủ dành cho chúng ta hôm nay, để chúng ta cũng biết thực thi luật yêu thương Chúa đã ghi khắc trong trái tim chúng ta, nhất là để chúng ta ý thức : yêu thương chính là chu toàn lề luật.
Tại những khu rừng ở Bắc Âu, có một loài chồn mang bộ lông trắng rất đẹp. Loài chồn này cố giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình luôn sạch sẽ bằng mọi giá. Chúng không bao giờ để bộ lông của mình dính bụi đất dơ bẩn.
Biết được đặc tính kỳ lạ này, các thợ săn thay vì đặt bẫy để bắt chồn, họ tìm những khe đá hoặc gốc cây, nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường lên. Sau đó, họ thả chó ra để săn đuổi. Những con chồn bị đuổi bắt vội chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị dơ bẩn, chúng không vào ẩn núp. Chúng chấp nhận bị bắt hoặc bị giết hơn là để bộ lông bị hoen ố.
Chỉ có loài chồn khờ dại mới coi trọng bộ lông hơn mạng sống như thế. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta cũng sống giống như vậy, khi chúng ta chỉ quan tâm sống đạo hình thức mà quên sống đạo nội tâm, chỉ chú trọng đến bộ áo đẹp đẽ hơn là tâm hồn đạo đức.
Chúng ta hãy xin Chúa dạy chúng ta biết tránh xa lối sống giả hình để luôn sống đạo cách chân thật và khiêm tốn. Chúng ta cũng xin Chúa rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi trong trái tim chúng ta và đổ vào đó tràn đầy tình mến Chúa yêu người