CN 2 Phục Sinh – Năm B – CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
“PHÚC THAY NHỮNG NGƯỜI KHÔNG THẤY MÀ TIN”
Suy niệm chú giải của Lm Inhaxiô Hồ Thông
***
Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta rằng niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh đã biến đổi những mối quan hệ giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa.
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Phục Sinh tiếp tục tưởng niệm biến cố Phục Sinh và những thành quả mà biến cố nầy đem lại trong suốt Mùa Phục Sinh cho đến lễ Ngũ Tuần.
Cv 4: 32-35
Đoạn trích sách Công Vụ nầy trình bày cuộc sống gương mẫu của các Ki-tô hữu tiên khởi: chia sẻ cho nhau nhu cầu cần thiết trong cuộc sống hằng ngày như cơm ăn áo mặc.
1Ga 5: 1-6
Thánh Gioan nhắc nhở chúng ta rằng niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh đã biến đổi những mối quan hệ giữa con người với nhau và giữa con người với Thiên Chúa.
Ga 20: 19-31
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho các Tông Đồ, đặc biệt là thánh Tô-ma, qua người môn đệ cứng lòng tin nầy, Ngài nhắn gởi đến tất cả chúng ta: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
BÀI ĐỌC I (Cv 4: 32-35)
Trong suốt Mùa Phục Sinh, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ trình bày cho chúng ta một cái nhìn bao quát trên cuộc sống cộng đồng tiên khởi, cộng đồng Ki-tô hữu tại Giê-ru-sa-lem.
1.Bố cục và nội dung:
Như chúng ta biết, sách Công Vụ bao gồm hai phần: phần thứ nhất nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, vạch lại thuở ban đầu của Giáo Hội; phần thứ hai được dâng hiến cho hoạt động truyền giáo của thánh Phao-lô, mà thánh ký Lu-ca là người đồng hành và là môn đệ của thánh nhân: tác giả tường thuật những biến cố mà mình được dự phần vào hay biết rất rõ.
Để mô tả thời kỳ mà tác giả đã không được trải nghiệm, thánh Lu-ca đã lợi dụng thời gian sống hai năm ở Pa-lét-tin trong khi thánh Phao-lô bị giam cầm ở Xê-da-rê (59-60), để điều tra, tìm hiểu những chứng nhân mắt thấy tai nghe. Chúng ta thấy những dấu vết của sự tra cứu tận nguồn này ở nơi văn phong, từ vựng, những ngữ điệu sê-mít điểm xuyến phần thứ nhất của sách. Trong khi đó, tác giả biên soạn phần thứ hai tùy thuộc vào chứng liệu của riêng mình, nên ngữ điệu Hy-lạp trau chuốt hơn.
Sự kiện Ki-tô giáo lan tràn nhanh chóng đánh động thánh ký Lu-ca. Thánh ký khám phá sức sống kỳ diệu của Giáo Hội tiên khởi, vừa ở nơi tác động của Chúa Thánh Thần (tác động nầy chiếm một chỗ quan trọng trong sách Công Vụ), vừa ở nơi sức mạnh lời chứng của các Tông Đồ cũng như cuộc sống gương mẫu của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Ba lần thánh Lu-ca phác họa đời sống của các Ki-tô hữu nầy, chắc chắn hơi được lý tưởng hóa, nhưng thật sự là mẫu mực. Trong chu trình Phụng Vụ năm B nầy, chúng ta đọc bản tóm lược thứ hai. Bản tóm lược thứ nhất (Cv 2: 42-47) đã được đọc vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm A, còn bản tóm tắt thứ ba (Cv 5: 12-16) sẽ được đọc vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm C.
2.Một lòng một ý:
Cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chắc chắn là một tập thể hỗn hợp gồm có những người Ki-tô hữu gốc Do thái bản địa và những người Ki-tô hữu gốc Do thái hải ngoại hay còn gọi những Ki-tô hữu chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp (Cv 2: 9) sống cùng nhau tại Thành Thánh và các vùng phụ cận, họ thuộc đủ tầng lớp: giàu cũng như nghèo, dân thường cũng như tư tế (Cv 6: 7), không phân biệt nam hay nữ (Cv 5: 14). Bất chấp những nguồn gốc và tầng lớp khác nhau nầy, họ đồng một lòng một ý với nhau: một niềm tin duy nhất gắn bó họ lại với nhau, đó là niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh vinh quang.
Thánh Lu-ca cũng không cố tình che dấu những bất đồng, những tranh cãi nhỏ nhặt trồi lên ở giữa lòng cộng đoàn hỗn tạp nầy, ví dụ như những lời kêu trách của các Ki-tô hữu Do thái hải ngoại đối với những Ki-tô hữu Do thái bản địa, nhưng những bất đồng mà thánh ký gợi lên không tác động đến sự duy nhất trong cùng một niềm tin của họ.
3.Mọi sự đều là của chung:
Sự duy nhất niềm tin nầy tạo nên đức ái huynh đệ được cụ thể hóa bởi việc đặt của cải chung, điều nầy hàm chứa việc người giàu chia sẻ cho người nghèo những nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hằng ngày như cơm ăn áo mặc. Việc chia sẻ nầy không bắt buộc, nhưng hoàn toàn tự nguyện. Phần tiếp theo của sách nêu gương ông Ba-na-ba, một thầy lê-vi thuộc đảo Sýp. Có một thửa đất, “ông bán đi lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ” (Cv 4: 37).
Mẫu gương của cộng đoàn Ki-tô hữu Giê-ru-sa-lem chắc chắn tạo nên những làn sóng thi đua. Lời chứng gần nhất với lời chứng của sách Công Vụ là cộng đoàn Ki-tô hữu Carthage cuối thế kỷ thứ hai. Cảnh tượng mà cộng đoàn nầy phô diễn về một cuộc sống huynh đệ đáng thán phục đã lay động nhà biện giáo Tết-tu-li-a-nô lừng danh và không lạ gì đã lôi kéo nhà biện giáo nầy theo. Ông hết lòng ca ngợi đức ái sống động của cộng đoàn nầy ở nơi việc chia sẻ của cải, lòng ưu ái đối với những người nghèo.
4.Không ai phải thiếu thốn.
“Tất cả những người có ruộng đất, nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các tông đồ”. Dường như thánh Lu-ca muốn mặc cho hành vi nầy một sắc thái phụng vụ. Quả thật, trong thời kỳ Ki-tô giáo tiên khởi, những của lễ mà các tín hữu dâng hiến đều được định vị trong khung cảnh phụng vụ, đặc biệt là việc cử hành Thánh Thể. Phụng sự Thiên Chúa hàm chứa “phục vụ anh em”. Không phải Bàn Tiệc Thánh Thể đã dâng hiến mẫu gương tuyệt vời nhất ở đó mọi người, giàu cũng như nghèo, đều đón nhận cùng một của ăn thức uống đó sao?
5.Mỗi người đều được phân phát tùy theo nhu cầu.
Từ vựng mà thánh Lu-ca sử dụng ở đây thật đáng chú ý. Động từ “phân phát”được dùng ở đây cũng là động từ Đức Giê-su đã sử dụng khi Ngài bảo chàng thanh niên giàu có: “Hãy bán tất cả những gì anh có mà phân phát cho người nghèo” (Lc 18: 22). Việc ám chỉ đến Tin Mừng này kết thúc bức phác họa của thánh Lu-ca về cộng đoàn tiên khởi.
BÀI ĐỌC II (1Ga 5: 1-6)
Sau bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị chúng ta suy niệm các bản văn của thánh Gioan: các thư và Tin Mừng Gioan, chung cho ba cả ba năm Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Phục Sinh. Điều này phù hợp với một truyền thống rất lâu đời (chỉ trừ Chúa Nhật III Phục Sinh, được trích từ Tin Mừng Lu-ca về hai người môn đệ trên đường Em-mau).
Ba bức thư không đề tên tác giả đều được quy cho thánh Gioan. Quả thật, tư tưởng và văn phong rất gần với sách Tin Mừng Gioan nên không thể không xếp chúng vào cùng một tác giả. Thư thứ nhất dài nhất và quan trọng nhất trong số ba bức thư nầy dường như gởi cho các cộng đoàn miền Tiểu Á bị tác động bởi các trào lưu ngộ đạo. Thánh Gioan nhấn rất mạnh trên đức tin. Chính nhờ đức tin mà chúng ta nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô (Đấng Mê-si-a) và là Con Thiên Chúa. Không thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đấng Ki-tô.
Thánh Gioan liên kết mật thiết đức tin với đức ái, vì tiêu chuẩn của đức tin Ki-tô giáo chính truyền là đức ái đối với anh em đồng loại, nghĩa là, “yêu người đích thật” là hoa trái của “mến Chúa thực lòng”. Cuối cùng, thánh Gioan cũng liên kết đức tin với lời chứng của Chúa Thánh Thần.
1.Gắn bó với Đức Ki tô.
Hành vi đầu tiên của đức tin là gắn bó với Đức Giê-su Ki-tô. Hành vi nầy dẫn đưa chúng ta vào trong cung lòng của Chúa Cha, Đấng sinh chúng ta ra làm con cái Thiên Chúa về phương diện siêu nhiên và liên kết chúng ta với nhau trong mối tử hệ tình yêu nầy đến nỗi đức ái huynh đệ Ki-tô giáo là hệ luận tức khắc của đức tin.
Những khẳng định nầy là đòn đáp trả chí mạng cho những diễn từ sai lạc của hai trào lưu tư tưởng: học thuyết của những Ki-tô hữu gốc Do thái và ngộ đạo thuyết, đang hoành hành ở giữa lòng các cộng đoàn mà bức thư nầy gởi đến.
A.Học thuyết của những Ki-tô hữu gốc Do thái:
Trào lưu thứ nhất xuất phát từ những Ki-tô hữu gốc Do thái. Những người nầy không chấp nhận Đấng Mê-si-a bị đóng đinh, vì thế họ phân biệt ở nơi con người của Đức Giê-su, một phàm nhân là con của ông Giu-se và bà Ma-ri-a và một nhân vật được biến đổi thành Đấng Mê-si-a nhờ phép Rửa và nhờ việc Thánh Thần xức dầu tấn phong. Trở thành Đấng Ki-tô (nghĩa là được xức dầu tấn phong), Đức Giê-su đã có thể công bố một sứ điệp siêu việt và thi hành các phép lạ, nhưng Đức Ki-tô thiên giới nầy tự tách ra khỏi Đức Giê-su phàm nhân vào giây phút Tử Nạn. Vì tự bản tính thần linh, Đức Ki-tô thiên giới nầy không thể nào chịu đau khổ và phải chết được.
Từ đó, chúng ta hiểu điểm nhấn của thánh Gioan: “Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Trong một đoạn văn trước đó, với một giọng điệu mãnh liệt hơn, thánh Gioan viết: “Ai là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô ? Kẻ ấy là tên phản Ki-tô, là kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con” (1Ga 2: 22). Hai tước hiệu: Đấng Ki-tô và Con Thiên Chúa, không ngừng được lập đi lập lại trong bức thư nầy.
B.Ngộ đạo thuyết:
Trào lưu ngộ đạo nầy xuất phát từ những Ki-tô hữu gốc lương dân. Họ nhạy bén trước những tư tưởng thần bí của các tôn giáo mầu nhiệm rất thịnh hành vào lúc đó, đặc biệt trong những miền Tiểu Á nầy được xem như chiếc nôi của chúng. Những người truyền bá trào lưu tư tưởng nầy cho rằng không cần thiết phải qua Đức Ki-tô để đến Thiên Chúa. Con người có thể hiệp thông với Thiên Chúa qua ơn thần khải nội tâm, sự xuất thần hay thậm chí nghi thức khai tâm.
Chống lại những suy luận nầy, thánh Gioan đề cập đến tử hệ thần linh mà Chúa Cha ban ngay tức khắc cho những ai tin vào Con của Ngài. Ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, người ấy thật sự sinh ra từ Thiên Chúa. Người nầy không thể nào không yêu mến Chúa Cha, bởi vì chính Chúa Cha là tác giả của cuộc sinh hạ siêu nhiên nầy.
Ngược lại với những suy luận trừu tượng nầy, thánh Gioan nêu lên việc thực hành“mến Chúa” và “yêu người” như tiêu chuẩn cơ bản của Ki-tô giáo chính truyền.
2.Đức Tin và Đức Ái:
Từ đó, thánh Gioan mạnh mẻ xác quyết: “Căn cứ vào điều nầy, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa”. Đức ái Ki-tô giáo cắm rễ sâu vào tận nguồn mạch Thiên Chúa. Thánh nhân tố cáo ngụy thần bí đức ái theo đó yêu thương anh em của mình chỉ vuông tròn trong một thứ tình cảm thuần túy nhân bản. Cội nguồn yêu thương độc nhất và chân thật là Thiên Chúa.
“Đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa, và thi hành các điều răn của Người”. Những điều răn nầy đã được xác định ở 3: 23, ở đó Chúa Cha đòi hỏi con người: phải tin vào Con của Ngài và phải yêu thương nhau. Việc đòi hỏi nầy không là gánh nặng: “Các điều răn của Người chẳng có gì là nặng nề”. Ở đây ám chỉ đến lời của Đức Giê-su: “Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11: 30). Thánh Âu-gút-ti-nô đã quảng diễn lời nầy trong một biểu thức danh tiếng: “Ở đâu có tình yêu ở đó không có sự nhọc mệt; hay nếu có sự nhọc mệt, thì sự nhọc mệt được yêu” (De bono viduitatis 26).
Đừng quên rằng những dòng nầy được ngỏ lời với những Ki-tô hữu trung thành sống điều răn kép: đức tin và đức ái, trong hoàn cảnh đầy khó khăn. Vị tông đồ an ủi họ:“Các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian”. Đây là một chủ đề mang đậm nét Gioan: người Ki-tô hữu sẽ chiến thắng thế gian (thế gian được hiểu theo nghĩa thế giới tội lỗi, từ chối tin như trong sách Tin Mừng thứ tư). Trong thư thứ nhất của thánh Gioan nầy, động từ “chiến thắng” lập đi lập lại đến sáu lần.
“Chúng ta thắng được thế gian, chính là nhờ lòng tin”. Chúng ta lưu ý rằng thánh Gioan xưng hô: “chúng ta”, như thế, thánh nhân liên kết mình vào cùng một cuộc chiến với những tín hữu của ngài. Thánh nhân nâng đỡ và khích lệ họ; ngài nhắc nhở cho họ lý do cuộc khải hoàn của họ: đối diện với mọi diễn từ sai lạc, họ đã giữ vững niềm tin vào tính toàn vẹn bất khả phân của Đức Giê-su. Vừa là Đấng Ki-tô vừa là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su đã tỏ mình ra không chỉ trong nước Thánh Tẩy của Ngài nhưng cũng trong máu Tử Nạn của Ngài, nghĩa là không chỉ trong nước mà thôi như những nhà ngụy giáo khẳng định, nhưng cả trong máu hiến tế của Ngài nữa. Đây không là một Đức Giê-su phàm nhân nhưng Con Thiên Chúa nhập thể đã đổ máu mình ra.
Chắc chắn thánh Gioan cũng nghĩ đến ân ban cao vời của Đấng Ki-tô, dù đã chết vẫn để máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của mình (Ga 19: 34-35). Vị tông đồ là chứng nhân nhãn tiền của những dấu chỉ về bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể.
3.Chúa Thánh Thần làm chứng:
Nếu nước và máu là những chứng từ hữu hình, thì cũng có một chứng từ vô hình khác, chứng từ của Chúa Thánh Thần. Vì thế, chân lý chiến thắng sự sai lạc, đức tin chiến thắng lạc giáo, điều nầy chứng thực sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chính Ngài gìn giữ sự thật.
Ở nơi lời nhắc nhở đạo lý nầy, chúng ta nhận ra một cuộc bút chiến. Vài trào lưu ngộ đạo tự nhận mình là “thuộc Thần Khí” và viện dẫn những ơn đặc sủng của mình cũng như ánh sáng “thần khải” của mình là “thuộc Thần Khí”. Ấy vậy, hành động của Thần Khí chỉ được xem là chính truyền nếu hoạt động nầy làm cho sự thật của Đức Giê-su hiện diện, bởi vì Chúa Cha làm chứng cho Chúa Con khi sai phái Chúa Thánh Thần đến. Đoạn trích thư này kết thúc với việc ghi nhận Ba Ngôi Thiên Chúa. Việc ghi nhận Ba Ngôi Thiên Chúa thường hằng được lập đi lập lại trong bức thư thứ nhất này của thánh Gioan.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-31)
Đây là một trong những trang Tin Mừng thiết lập niềm xác tín của chúng ta: “Đức Giê-su của niềm tin thật sự là Đức Giê-su của lịch sử”. Chính các Tông Đồ chứng thực sự kiện Phục Sinh. Hơn nữa, nhờ sự cứng tin của một trong số họ, vài ngày sau đó, họ hưởng được một sự kiểm chứng.
Theo truyền thống, bản văn nầy được đọc vào Tuần Bát Nhật Phục Sinh, bởi vì thánh ký nói với chúng ta, Đức Giê-su hiện ra cho thánh Tô-ma “tám ngày sau”, nghĩa là cũng vào “chiều ngày thứ nhất trong tuần” sau đó. Quả thật, chúng ta đọc thấy nơi bài tường thuật nầy hai tình tiết: Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho mười Tông Đồ vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, và Ngài hiện ra đặc biệt cho Tô-ma cũng vào buổi chiều thứ nhất trong tuần sau đó.
1.Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho mười Tông Đồ (20: 19-23)
“Chiều thứ nhất trong tuần” tức là vào chính buổi chiều của biến cố Phục Sinh. Việc chỉ dẫn thời gian nầy rất quý: ngày thứ nhất trong tuần chính là ngày mà những người Ki-tô hữu đã chọn rất sớm để cùng nhau tham dự việc bẻ bánh, như vậy nhấn mạnh tính chất phục sinh của việc cử hành Thánh Thể. Cũng vậy, việc Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho thánh Tô-ma được định vị “tám ngày sau đó”, nghĩa là cũng chính ngày thứ nhất trong tuần sau đó.
Các Tông Đồ họp nhau lại gồm mười vị bởi vì rõ ràng thiếu Tô-ma. Dường như Tô-ma đã không tha thiết gì đến việc hội họp với các Tông Đồ khác nữa. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng chính thánh Phê-rô đã quy tụ họ để thông báo cho họ những sự cố vừa mới xảy ra: việc khám phá ngôi mộ trống, quang cảnh khăn che mặt không để lẫn với những băng vải liệm, sự kiện bà Ma-ri-a Mác-đa-la trong số vài người phụ nữ nói đã thấy Đức Giê-su Phục Sinh và Ngài đã nói với bà…
Chúng ta đoán rằng các Tông đồ đang sống trong bầu khí hoang mang vừa hy vọng lẫn sợ hãi: “Nơi các môn đệ ở, cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái”. Diễn ngữ “vì sợ người Do thái” được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Gioan, thậm chí trước cuộc Thương Khó, như cha mẹ của anh mù từ lúc mới sinh chỉ trả lời vòng vo“vì sợ người Do thái” (Ga 9: 22). Trong Tin Mừng thứ tư, người Do thái trước hết chỉ giáo quyền Giê-ru-sa-lem. Họ đã ra án tử cho Thầy bây giờ sẽ ra tay với các môn đệ chứ?
Và nầy, Đức Giê-su thình lình đứng giữa họ bất chấp “các cửa đều đóng kín”; Ngài tự đặt mình ở giữa nỗi hãi hùng xao xuyến của họ cũng như Ngài đã đồng hành bên cạnh nỗi buồn phiền của hai môn đệ trên dường Em-mau (Lc 24: 13-32). Nỗi sợ hãi và buồn phiền sẽ sớm biến thành niềm vui.
A.Bình an cho anh em.
Đây là lời chào thường ngày theo phong tục tập quán của người Do thái, nhưng lời chào của Đức Giê-su trong bối cảnh này chẳng bao giờ là thường tình cả. Đức Giê-su đem sự bình an của Ngài, sự bình an mà Ngài đã hứa, đến cho những người nầy, những người đã bỏ rơi Ngài vì thất vọng. Ngài đem đến cho họ sự bình an qua sự hiện diện và sự tha thứ của Ngài: không một lời quở trách, không một ám chỉ đến bất kỳ kiếm khuyết của họ, đến nỗi cô độc mà họ đã bỏ rơi Ngài một mình trong cuộc khổ nạn của Ngài. Để cho họ nhận ra Ngài, Đức Giê-su cho họ thấy những chứng tích ở tay và cạnh sườn Ngài như chính thức đồng nhất hóa “thân thể phục sinh” của Ngài với “thân thể chịu đóng đinh”của Ngài.
Ở đây, chúng ta thẩm định tầm quan trọng của việc khám phá ngôi mộ trống: một mặt, thân thể của Ngài không bị phân hủy trong ngôi mộ, còn mặt khác, chính thân thể ấy mà Ngài hiện ra với các ông, chứ không như bóng ma: chỉ một thân thể đang sống, có thể đụng chạm, gặp gỡ tiếp xúc, chính thân thể ấy mang lấy những vết thương của cuộc khổ nạn. Lúc đó “các môn đệ thật sự tràn ngập niềm vui”.
B.Những chứng tích của cuộc khổ nạn:
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan nêu lên những vết thương ở tay và cạnh sườn của Đấng Phục Sinh, trong khi thánh Lu-ca trong bài tường thuật song song viết: “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24: 40). Thánh Gioan là thánh ký duy nhất tường thuật tình tiết người lính Rô-ma lấy lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn của Đức Giê-su. Thánh ký đã chứng kiến máu cùng nước chảy ra, ân ban tột cùng từ cái chết của Đức Ki-tô. Thánh ký đã thấu hiểu ở đây dấu chỉ biểu tượng: cuộc sinh hạ Giáo Hội trong và bởi bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể. Ở đây, thánh ký nhấn mạnh thêm một lần nữa. Chính xác Giáo Hội chào đời vào buổi chiều Phục Sinh nầy, dưới hơi thở của Thần Khí và bởi việc sai các Tông Đồ đi thi hành sứ vụ. Sự tương phản đáng ngạc nhiên: với những con người giam mình sợ hãi giữa bốn bức tường trong căn phòng cửa khóa then cài, Đức Giê-su ra lệnh lên đường, ra đi gặp gỡ “hết tất cả mọi người” không phân biệt một ai.
Vì mục đích sứ vụ nầy, Đức Giê-su tái tạo họ, chúng ta có thể nói như vậy, khi thổi Thần Khí của Ngài, Đấng Phục Sinh, trên họ và ban cho họ được quyền tha thứ cho anh em mình… như Ngài đã hứa với họ: máu Ngài đã đổ ra để tha thứ tội lỗi. Đó là sự phong nhiêu của biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
2.Chúa Giê-su phục sinh hiện ra đặc biệt cho thánh Tô-ma (20: 24-29):
A.Tô-ma cứng tin.
Chắc chắn thánh Tô-ma gắn bó rất mật thiết với Đức Giê-su; thánh nhân đã yêu mến Ngài và tin vào Ngài. Vào lúc lên Giê-ru-sa-lem sau cùng, ông đã hăm hở nói với các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Người” (Ga 11: 16). Nhưng ông không ngờ Ngài phải chịu chết ô nhục trên thập giá; cái chết nầy đã làm giấc mơ của ông tan thành mây khói. Niềm thất vọng lẫn nỗi buồn phiền khiến ông tách biệt khỏi các bạn đồng môn khác. Chúng ta biết được nhân cách của Tô-ma chỉ nhờ Tin Mừng thứ tư. Tin Mừng nầy ba lần đặt thánh nhân vào hoạt cảnh.
Với một tâm trí thực tiển, trước đây trong bữa Tiệc Ly thánh nhân đã nêu lên cho Đức Giê-su một câu hỏi thực tế và thẳng thắn: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường ?” (Ga 14: 4-5); vì thế, bây giờ thánh nhân từ chối tin vào sự kiện Phục Sinh nếu không có bằng chứng do chính ông kiểm chứng. Trong mỗi người chúng ta ẩn hiện một dáng dấp nào đó của thánh Tô-ma: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
B.Lời tuyên xưng của thánh Tô-ma:
Đức Giê-su Phục Sinh cảm thương người môn đệ có tâm hồn nhiệt thành nầy đang đắm chìm trong nỗi phiền muộn, trong khi các môn đệ khác đang hớn hở vui mừng; vì thế, Ngài bằng lòng đáp ứng những đòi hỏi của ông: tám ngày sau, Chúa Giê-su lại hiện đến với các ông, đặc biệt với Tô-ma.
“Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy…”. Bản văn không nói cho chúng ta biết thánh Tô-ma có thực sự làm đúng như Thầy bảo, nhưng đúng hơn ông lập lại điều mà thánh Gioan đã nói về người môn đệ Chúa yêu khi đi vào trong ngôi mộ: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Thánh Tô-ma có được bằng chứng của biến cố Phục Sinh, vì thế, ngay lập tức ông tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”.
Trong toàn bộ các sách Tin Mừng, đây là lần đầu tiên tước hiệu “Thiên Chúa”được ban cho “Đức Giê-su”. Tuy nhiên, còn dấu chỉ nào cho thấy Thần Tính của Ngài rực sáng hơn biến cố Phục Sinh? Tiếng kêu cá nhân của Tô-ma diễn tả tâm tình biết ơn của ông, vì Đức Giê-su đã quan tâm đặc biệt đến ông.
Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy nên anh mới tin”, đoạn, nghĩ đến tất cả những ai đã không được diễm phúc như ông, Đức Giê-su nhắn gởi đến đám đông bao la các tín hữu của mọi thời đại: “Phúc thay những người không thấy mà tin !”. Đây là mối phúc duy nhất của Tin Mừng Gioan. Trước hết, mối phúc nầy chính xác dựa trên lời chứng của nhóm Mười Một, mà lời chứng của thánh Tô-ma là thấm thía nhất.