GIÁO DỤC CON CÁI HƯỚNG ĐẾN TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH
Mục lục
I. TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH LÀ GÌ?
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ DẤU HIỆU TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH
A – Đặc điểm trưởng thành của con người
B – Những dấu hiệu của sự trưởng thành tâm linh
3. Đối với Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài
WHĐ (11.8.2021) – Không có ý định diễn tả hết mọi khía cạnh của đời sống trưởng thành tâm linh, vì sự trưởng thành tâm linh không thể bị giới hạn vào một số trang giấy, bài viết này chỉ trình bày một số điểm liên quan đến sự trưởng thành tâm linh của người Kitô hữu qua các đề mục sau: Trưởng thành tâm linh là gì? Đặc điểm sự trưởng thành tâm linh? Những dấu hiệu nào cho chúng ta nhận ra sự trưởng thành tâm linh?
I. TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH LÀ GÌ?
Với câu hỏi: Sự trưởng thành tâm linh là gì? Làm thế nào để trưởng thành hơn về mặt tâm linh? Có thể đưa ra một số câu trả lời:
– Từ ngữ “trưởng thành” liên quan đến sự chín chắn và sự chín muồi. Trưởng thành là trạng thái của những gì đã chín muồi. Sự trưởng thành tâm linh là trạng thái phát triển hoàn chỉnh các yếu tố tinh thần và trí tuệ, những yếu tố lập thành con người nội tâm, nghĩa là con người tinh thần mà chúng ta phải có. Với trạng thái này, con người trưởng thành có khả năng phân biệt điều gì là tốt, điều gì là xấu, điều gì thiện, điều gì là ác và đặc biệt là điều làm đẹp lòng Chúa.
– Dựa trên bối cảnh của câu Kinh thánh : “Vì thế, gác một bên giáo huấn sơ đẳng về Đức Kitô, chúng ta hãy vươn tới trình độ giáo huấn trưởng thành …” (Dt 6, 1), sự trưởng thành này là trạng thái của một con người chín chắn, “…những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ” (Dt 5, 14). Thánh Phaolô còn lưu ý “người trưởng thành” này là một ‘“người sống theo Thần Khí”: “Nhưng con người sống theo Thần Khí thì xét đoán được mọi sự, mà chẳng có ai xét đoán được người đó” (1 Cr 2, 15). Từ ngữ “trưởng thành” trong văn bản Kinh thánh này diễn tả trạng thái hoàn thiện về mặt tinh thần hoặc đạo đức.
– Trưởng thành tâm linh là một quá trình được khởi đầu khi một cá nhân nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc. Người đó được sinh lại bởi Chúa Thánh Thần sau khi chọn cuộc sống “trong Chúa Kitô” (Pl 3, 12-14). Với tư cách là người Kitô hữu, một khi được Rửa Tội, chúng ta bắt đầu một quá trình trưởng thành về mặt thiêng liêng, làm thế nào để ngày càng trở nên giống Chúa Giêsu Kitô. Chính vì vậy, để trở thành một Kitô hữu trưởng thành và để phát triển đời sống của bạn, bạn nên chọn cách lắng nghe Lời Chúa, bước theo Chúa để đổi mới suy nghĩ, và sau đó vâng nghe những gì mà bạn đã học được (Rm 12, 1-2), dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (Gl 5, 22-23). Sự trưởng thành của người Kitô hữu đòi hỏi phải xác định lại cách triệt để các ưu tiên của người trưởng thành: chúng ta không còn tìm cách làm hài lòng bản thân nữa, nhưng làm hài lòng Thiên Chúa và học cách vâng lời Ngài. Chìa khóa của sự trưởng thành này là sự gắn bó chặt chẽ và kiên trì làm những gì mà chúng ta biết sẽ đưa chúng ta đến gần Chúa hơn. Những thực hành này được gọi là các kỷ luật tâm linh, bao gồm đọc và nghiên cứu Kinh Thánh, cầu nguyện, hiệp thông và phục vụ anh em.
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ DẤU HIỆU TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH
Người trưởng thành tâm linh có những đặc điểm và những dấu hiệu nào để được nhận ra?
A – Đặc điểm trưởng thành của con người
– Để mô tả nhân cách trưởng thành, cách chung, chúng ta thường đề cập đến một đặc điểm là sự vượt qua tình trạng “trẻ con” để đạt được tình trạng “người lớn”: Một cá nhân nào đó đã vượt qua, từng nấc thang, từ tình trạng vô tổ chức của những năm đầu đời của cuộc sống nói chung: thể lý, tâm lý, tâm linh, đến sự sáng tạo của tuổi trưởng thành, trong đó người trưởng thành và đặc biệt là với tư cách một người Kitô hữu có thể đối mặt với nhiều vấn đề hiện có và đảm nhận các trách nhiệm một cách hợp lý.
– Sự trưởng thành tâm linh có đặc điểm là sự hài hòa nội tâm giữa tất cả các yếu tố trong nhân cách của một cá nhân. Vượt qua cách cân đối hài hòa “cái tôi” của mỗi người để thích nghi với xã hội mang tính xây dựng và hạnh phúc. Hài hòa bên ngoài là sự thích nghi đối với người khác, ý thức trách nhiệm và khả năng tự kiểm soát, nhưng không để mất chính mình. Đây là những điều kiện rất tích cực cho mọi nền giáo dục: cá nhân, trong gia đình, trong Giáo Hội và ngoài xã hội.
Cho nên, đặc tính của người trưởng thành nhân bản và tâm linh: Khả năng chuyên môn, khả năng thích ứng, hợp tác hài hòa và khả năng đối diện với các vấn đề của cuộc sống, giải quyết các vấn đề này cách có kiểm soát, trách nhiệm, với năng lực của chính mình và nhờ ơn Chúa.
Từ các đặc điểm này chúng ta bước đến những dấu hiệu trưởng thành tâm linh.
B – Những dấu hiệu của sự trưởng thành tâm linh
Dù muốn hay không, tất cả chúng ta đều trưởng thành về mặt thể lý. Tuy nhiên, trưởng thành tâm linh thì không được bảo đảm ngay tức khắc, bởi vì trưởng thành tâm linh không xảy ra một sớm một chiều. Nó đòi hỏi mục đích, thời gian, và nỗ lực để nhận ra những ích lợi của nó. Dựa vào các bản văn Kitô giáo, chúng ta sẽ thấy một phần nào về dấu hiệu của sự trưởng thành tâm linh.
Thánh Phaolô nói về ba nhân đức: Tin, Cậy, Mến, như những lực lượng năng động đóng vai trò quyết định trong sự trưởng thành của đời sống tâm linh (1 Tx 1, 3, 5, 6…). Ngài đối lập thái độ của người Kitô hữu “trẻ con” với một thái độ của người Kitô hữu “trưởng thành”. Ngài thường sử dụng các từ đối lập “trẻ con-người lớn” hoặc “không hoàn hảo-hoàn hảo” (1 Cr 2, 6; 13, 10 sq. 14, 20; Pl 3,15; Col 1, 28). Theo Thánh Phaolô, “trẻ con” là khởi đầu của đời sống Kitô hữu. Trẻ con có những bước đầu tiên của nó còn chưa chắc chắn và những lời nói ấp úng của trẻ con không rõ ràng. “Người trưởng thành”, hay “hoàn hảo”, là người Kitô hữu mà trong người đó những mầm mống của cuộc sống mới nhận được lúc Rửa tội đã phát triển và đạt đến sự viên mãn. Ngừng cách hành xử như một đứa trẻ để đảm nhận hành vi của một người lớn, nghĩa là, đảm nhận trách nhiệm mới về đức tin và ân sủng tạo thành một bước quyết định trong sự trưởng thành của nhân cách Kitô giáo. “Bao lâu người thừa kế còn là thiếu niên thì không khác gì một nô lệ, mặc dù là chủ mọi tài sản. Nó phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định…” (Gl 4, 1-2..; 1 Cr 13, 11)
Việc vượt qua chủ nghĩa trẻ con (tính trẻ con) chỉ là khía cạnh tiêu cực của quá trình trưởng thành tâm linh. Bởi vì sự trưởng thành không chỉ là sự từ bỏ những điều không hoàn hảo, sự trưởng thành còn là một sự phát triển tích cực hướng tới sức sống trọn vẹn nhất, thể hiện đầy đủ ân sủng. Những dấu hiệu của sự trưởng thành tâm linh như thế rất đa dạng.
1. Đối với bản thân
Có những giai đoạn khác nhau trong đời sống Kitô hữu mà qua đó người Kitô hữu vượt qua, hoặc phải vượt qua, để đạt đến sự trưởng thành. Đây là lý do tại sao mà chúng ta có thể nói rằng người Kitô hữu lúc đầu là một “đứa trẻ” trong đức tin khi vào gia đình của Chúa. Vào những lúc đó, Kitô hữu cần “sữa” thiêng liêng như những đứa trẻ nhỏ để lớn lên, để trưởng thành (Dt 5, 13 ; Ga 16, 12).
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, bản thân người Kitô hữu trưởng thành có những dấu hiệu nào ?
a- Tính tiết độ
Tính tiết độ là tính chất và thái độ cư xử của một người tránh xa những cực đoan : không thái quá cũng không bất cập. Áp dụng cho tính tiết độ, có câu ngạn ngữ “In medio stat virtus’” mà Aristotle, trong tinh thần này, đã đề cập trong quyển Nicomachean Ethics Book II, Chapter VI.Không dừng lại trong chế độ ăn uống điều độ, tính tiết độ là hoa trái của Thánh Linh : “Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế” (Gl 5, 23). Đó cũng là một dấu hiệu của tình yêu, bởi vì người có tình yêu chân chính không nổi giận và chịu đựng mọi thứ (1 Cr 13, 5-7). Tính tiết độ là dấu hiệu cao quý nhất của người Kitô hữu. Ngày nay chúng ta hầu như ít thấy dấu hiệu này ở nơi con người, bởi đặc điểm của con người thời nay gần đúng như lời Thánh Phaolô trong thư thứ hai gửi cho Timôthêô : “…Người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa” (2 Tm 3, 2-4). Chỉ có Kitô hữu trưởng thành mới có dấu hiệu của sự tiết độ.
Người trẻ trong đức tin sẽ phải rèn luyện sự tiết độ để từ bỏ những gì mình từng làm trước đó ! Thật dễ dàng để bị kích động hoặc tức giận khi chúng ta bị khiêu khích, hoặc khi mọi người nói xấu chúng ta, hoặc khi người khác nhìn chúng ta một cách khó chịu hoặc khi mọi người nói chúng ta một cách ác ý. Thật dễ dàng để rơi vào một rối loạn tình cảm hoặc dinh dưỡng ! Mặc dù sống trong một xã hội tiêu cực như thế, nhưng Lời Chúa thúc giục chúng ta rèn luyện tính tiết độ để giành chiến thắng trước những khuynh hướng tội lỗi và xác thịt của chúng ta (1 Cr 9, 24-27). Chúa Kitô, là mẫu mực của chúng ta trong mọi thứ, dĩ nhiên Ngài có dấu hiệu của sự ôn hòa (1 Pr 2, 22-23 ; Mt 4, 1- 11). Một Kitô hữu trưởng thành có thể giữ được sự thanh thản giữa cơn bão, người đó làm chủ chính mình và sử dụng sự ôn hòa trong mọi việc, người đó có giá trị hơn đá quý và người đó chứng tỏ mối quan hệ chặt chẽ với Thiên Chúa. Sống đạo không vì tình cảm, vui buồn, không vì sự thành công hay thất bại trong đường đời, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào, người Kitô hữu trưởng thành tâm linh cũng thờ phượng Chúa và yêu mến tha nhân cách điều hòa.
b- Kiểm soát tư tưởng
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, người Kitô hữu trưởng thành kiểm soát được tư tưởng. Chúng ta phải cầu xin Chúa kiểm tra ý tưởng của chúng ta. “ Lạy CHÚA, xin dò xét và thử thách con, tâm can này, xin đem thử lửa” (Tv 26, 2). Những hành động của lòng tốt là kết quả của những suy nghĩ tốt, “Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Mt 12, 34).
Tinh thần có thể buồn và suy đồi ở cấp độ tâm linh (2 Cr 3, 14). Tinh thần như thế có thể chuẩn bị mảnh đất cho việc rơi vào tội lỗi. “Kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào” (Cn 16, 18). Nhưng, người Kitô hữu trưởng thành tâm linh có dấu hiệu này: Anh ta kiểm soát tư tưởng của mình. Anh ta sống theo tinh thần“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù” (1 Cr 13, 4-5). Nên nhớ, ma quỷ luôn tìm cách chuyển hướng ý tưởng chúng ta đến những điều xấu xa và nhục cảm, nhưng hãy cầu nguyện luôn để chúng ta dẫn ý tưởng xấu trở lại con đường đúng đắn và sửa chữa nó hướng về những thứ mà Chúa mong muốn. Khi Chúa thấy những nỗ lực chân thành của chúng ta để giữ những suy nghĩ cho trong sạch, thì Ngài sẽ thanh tẩy những suy nghĩ và sẽ giải thoát chúng khỏi mọi tội lỗi kín đáo, và Ngài ban ơn cho chúng ta để “Chúng ta đánh đổ các kiểu lý luận và mọi thái độ kiêu căng chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa. Chúng ta bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Kitô” (2 Cr 10, 5).
Vâng, Thiên Chúa qua Thánh Thần của Người, là Đấng có thể làm mới ý tưởng của chúng ta, và đưa chúng ta đến sự trưởng thành về tâm linh (Dt 8, 10). Chúng ta có dấu hiệu này không?
c- Kiểm soát lời nói
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, người Kitô hữu trưởng thành kiểm soát được lời nói của mình. Đây là một dấu hiệu khác của sự trưởng thành Kitô giáo đích thực. Ông Gióp hiểu câu hỏi quan trọng này: “Phải chăng tôi nói lời gian dối khi mở miệng?” Gióp 6, 30 là câu hỏi mà tất cả chúng ta nên tự hỏi mình là Kitô hữu vì “Sống hay chết đều do cái lưỡi, ai yêu chuộng nó, sẽ lãnh nhận hậu quả” (Cn 18, 21). Trong y học tự nhiên có chẩn đoán bằng lưỡi. Qua màu sắc và hình dạng của lưỡi, bác sĩ có thể biết một người đang như thế nào, đi về hướng nào. Thuốc trị dị ứng cũng sử dụng chẩn đoán này. Do đó, bác sĩ có thể có một hướng dẫn để biết tình trạng sức khỏe của từng cá nhân.
Theo cách tương tự, trong “bệnh viện” là Thánh đường, người ta có thể biết anh chị em đang làm thế nào, có thái độ nào thông qua lưỡi của mình. Đó là một dấu hiệu đặc biệt, không ai có thể nghi ngờ nó. Khi người nào không thể kiểm soát lời nói của mình, việc giữ đạo của người đó chỉ là giả hiệu, như thánh Giacôbê nói: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1, 26).
Có bao nhiêu vấn đề mà chúng ta rơi vào hoặc có thể rơi vào, vì không thể kiểm soát lưỡi của chúng ta, bởi vì, với cái lưỡi, chúng ta thường hay phê bình, phán đoán, dèm pha không đúng lúc, không đúng đối tượng. Nhưng nên nhớ rằng: “Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?” (Ga 4, 12). Có bao nhiêu vấn đề đã được gây ra hoặc có thể gây đau buồn trong giáo xứ, trong gia đình, trong khu phố của chúng ta, tại nơi làm việc, trên đường phố, vì những gì mà chúng ta nói hoặc cách mà chúng ta nói. Thánh Giacôbê nhận định: “Cái lưỡi cũng vậy: nó là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn… Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một vị trí giữa các bộ phận của thân thể chúng ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hỏa ngục đốt cháy” (Gc 3, 4-6). Mặt khác, nếu chúng ta kiểm soát được lời nói của mình, chúng ta sẽ ít bị cám dỗ làm điều xấu hơn, bởi vì người khác không thể đọc được suy nghĩ của chúng ta, nhưng có thể thấy những việc mà chúng ta làm và nghe những lời mà chúng ta nói ra mà khuyên nhủ chúng ta.
Mặc dù chúng ta phải rõ ràng với người khác, điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể nói bất cứ điều gì hoặc bằng bất kỳ cách nào. Hãy cẩn thận, hãy giải thích chân lý nhưng hãy làm điều đó bằng sự khiêm tốn, bằng sự đơn giản và tình yêu. Điều ngược lại có thể làm tổn thương cách vô ích và Thiên Chúa không thể chấp nhận (Cn 10, 31-32). Chúng ta hãy nói để xây dựng: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4, 29). Chúa Giêsu là mẫu gương kiểm soát lưỡi của mình. Ngài đã có dấu hiệu trưởng thành này. Những người đã ở với Ngài xác nhận điều này: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (Lc 24, 19; Ga 7, 46). Chúng ta có dấu hiệu này chưa? Chúng ta kiểm soát lời nói của chúng ta hay là nó kiểm soát chúng ta?
d- Kiểm soát việc làm
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, người Kitô hữu trưởng thành kiểm soát được việc làm của mình. Việc làm của mình có thể được phân chia ra trong hai lãnh vực: Tình cảm và Lý trí.
e- Kiểm soát tình cảm
Khi đã đủ no “sữa thiêng liêng”, người Kitô hữu trưởng thành kiểm soát được tình cảm. Nơi một người “trưởng thành”, các sức mạnh tình cảm phải tạo thành một tổng thể và được hội nhập với lý trí, để lý trí có thể sử dụng các sức mạnh này một cách thực sự hợp lý. Sự hợp nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm, không vướng trở ngại, cho phép con người đạt đến mức trưởng thành tâm linh cao nhất và gặt hái những lợi ích tốt nhất. Như thế, lý trí được hưởng lợi từ nghị lực và niềm vui đến từ tình cảm. Đồng thời, một khi lý trí kiểm soát được tình cảm, thì chủ thể tận hưởng một sự thống nhất hài hòa nội tâm và chủ thể ở trong điều kiện tốt nhất để sống sự trưởng thành tâm linh của mình. Không nên để tình cảm làm chủ con người của mình, bởi vì, lúc đó, con người sẽ bị điều khiển bởi những đam mê của mình hoặc sẽ bị chia rẽ nội tâm.
Trong phạm vi Kitô giáo, theo sự quan sát của các tác giả có uy tín, thì dựa trên một quan niệm được truyền cảm hứng từ tư tưởng Kitô giáo, thậm chí người ta có thể nói rằng sự trưởng thành về tình cảm trùng khớp với sự trưởng thành về đạo đức, hay đúng hơn là với sự trưởng thành nhân bản.
Nhân cách trưởng thành phải đạt đến sự trưởng thành trên mọi mặt, đặc biệt là về tình cảm. Và chính vì cảm tính được coi là một chiều kích cơ bản của con người mà chúng ta có thể đánh giá có sự trưởng thành hay không. Tình cảm là điều kiện thiết yếu cho sự vận hành hoàn hảo của nhân cách: con người là có tình cảm. Người trưởng thành tâm linh kiểm soát được tình cảm, để đưa tình cảm về phạm vi đạo đức. Được nâng đỡ bởi Ơn Chúa và lý trí, người trưởng thành tâm linh phán đoán về mình và về người khác cách không thiên vị, không quá bị ảnh hưởng bởi tình cảm, phán đoán một cách khách quan.
f- Kiểm soát lý trí
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, người Kitô hữu trưởng thành kiểm soát lý trí. Trong việc này, người trưởng thành trước hết là biết phân định việc đúng và sai trong cuộc sống nói chung.
– Phân định là nghệ thuật dạy sự phân biệt cần thiết cho kiến thức hoặc hành động để nhận định điều nào tốt điều nào xấu, việc làm này thuộc về ai, và thực hiện lúc nào… Trong đời sống đạo đức phức tạp, rất khó để áp dụng các chuẩn mực đạo đức đúng đắn và ngay lập tức, cho nên phân định làm cho việc áp dụng đó có thể xác định được để tránh khỏi xung đột về bổn phận và trách nhiệm. Phân định phải tính đến hoàn cảnh và lịch sử cá nhân của mỗi người để đưa ra quyết định “điều chỉnh” cho hợp với tình yêu và lời kêu gọi cá nhân mà Thiên Chúa gửi đến từng người chúng ta. Về đề mục “Phân định”, chúng ta liên tưởng đến Tông Huấn Niềm Vui của Tình Yêu (Amoris Laetitia) của Đức Thánh Cha Phanxicô năm 2016, trong đó có mục bàn về việc “Phân định”. Chúng ta chỉ nói vắn tắt ở đây, vì việc này liên quan đến đời sống Hôn nhân nhiều hơn.
Phân định mục vụ khi đối diện với những hoàn cảnh không đáp ứng đầy đủ những gì Chúa đề nghị (NVTY 6). Phân định những khó khăn trong các Bí tích Rửa tội, Hôn phối, Thánh Thể, để một người có thể tham gia vào đời sống cộng đoàn… “cần phân định xem có thể vượt qua những hình thức loại trừ nào đang được thi hành trong lãnh vực phụng vụ, mục vụ, giáo dục và cơ chế” (NVTY 299).
Phân định này chỉ ra nhiệm vụ của các mục tử, đặc biệt là Giám mục và Linh mục, đối với những người hoặc những tình huống riêng biệt. Phân định này nhằm mục đích đo lường tính đặc thù của sự khác biệt chủ quan và khách quan, bằng cách liên kết chúng với giáo huấn của Giáo Hội (xem NVTY 300). Phân định này chỉ cho các tín hữu con đường của sự trung thành và tăng trưởng của đời sống Kitô hữu trong các tình huống nghi vấn. Trong sự phân định này, lời khuyên dành cho các vị mục tử là không nên khắt khe: “Các Mục tử trong khi nêu cho các tín hữu lí tưởng trọn vẹn của Tin mừng và giáo huấn của Hội thánh, cũng phải giúp họ biết cảm thương những con người yếu đuối và tránh ngược đãi hoặc xét đoán quá khắc nghiệt và thiếu kiên nhẫn” (NVTY 308)
– Trong việc phân định, dấu chỉ của người trưởng thành tâm linh là nhận ra sự biến đổi và canh tân của tâm trí và trái tim trong trung tâm sâu thẳm của nó (Rm 12, 2), những thứ đó có thể làm cho người trưởng thành tâm linh “phân biệt điều lành điều dữ”, “Thức ăn đặc thì dành cho những người đã trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ” (Dt 5, 14; 1 Cr 14, 20). Chúng ta thậm chí còn đạt được một phân định về “dâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”(Rm 12, 2). “Ý Thiên Chúa”, “sự hoàn hảo” này, không còn có thể được xác định bằng một quy tắc của luật tự nhiên được đưa ra một lần cho mãi mãi nữa. “Sự hoàn hảo” của người Kitô hữu có nét đặc trưng là sự ngoan ngoãn và phục tùng ý muốn Thiên Chúa. Cần phải tìm kiếm, phân định bởi vì chúng ta không thể biết trước các yêu cầu của Thiên ý.
Trong việc kiểm soát lý trí, lý trí phân định phẩm cấp những phán đoán của mình: việc tất yếu và việc bất tất, việc chính và việc phụ; từ đó đưa ra tiêu chuẩn định vị tính siêu việt trong phạm vi lý trí (xem Dictionnaire de la Vie Spirituelle. Cerf, 1987, pp. 662-671).
1) Tính ưu việt của tổng số trên một thành phần. Đây là một nguyên tắc căn bản của lý trí nói về sự hiển nhiên tự nó mà mọi người công nhận: hai cộng hai bằng bốn; toàn thể lớn hơn thành phần. Dĩ nhiên tất cả các phần của cơ thể đều quan trọng, nhưng mọi thành phần cơ thể đều hướng về thân thể: thành phần hướng về toàn thể. “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1 Cr 12, 26). Có thể nói, tất cả các hoạt động khác nhau phải phụ thuộc vào mục đích của toàn thể.
2) Tính ưu việt của khách quan so với chủ quan. Đây cũng là một quy luật xử sự chung của mọi người. Chủ quan chưa chắc đã tốt, bởi vì đôi khi những phán đoán “chủ quan” thì thiếu tính trung thực, dựa vào tình cảm, dựa vào thế giá, mà không dựa vào công ý (sensus communis). Cho nên, phải vượt qua “cái tôi” ích kỷ của mình để cân bằng tình cảm, để hướng về các lãnh vực của các giá trị khách quan trọng yếu. Tận hiến chính mình cho sự thật và điều thiện, bằng cách từ bỏ những sự thỏa mãn vô ích của sự ích kỷ, thì phong phú hóa sự thật và điều thiện nhiều hơn.
3) Tính ưu việt của sự tiến triển có tính sáng tạo. Quy luật của mọi sinh vật và đặc biệt nơi con người là khuynh hướng phát triển và làm tăng giá trị cá nhân. Con người về cơ bản được định hướng về hướng siêu việt. Nên con người cần phải có đầu óc sáng tạo để đi lên hướng về siêu việt thể.
Kết hợp ba quy luật này lại, thì công việc đào tạo thành người trưởng thành sẽ thành công hơn về nhân cách và tâm lý, cao hơn nữa là cộng tác cho sự thành công về trưởng thành tâm linh.
2. Đối với tha nhân
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, đối với tha nhân, người Kitô hữu trưởng thành có những dấu hiệu theo sau đây:
a- Hội nhập để hiệp thông trọn vẹn vào đời sống Giáo Hội là mục đích của Giáo Hội. Không loại trừ nhưng luôn luôn tìm nhiều phương cách khác nhau để kéo mọi người đến với Chúa và với Giáo Hội của Ngài.
Trong phạm vi hẹp hơn của từng cá nhân, khái niệm “hội nhập” về cơ bản có nghĩa là sự thống nhất, sự hài hòa các chức năng của con người. Sự hài hòa giữa những mong muốn, khuynh hướng, ý tưởng, tham vọng và những quyết tâm, giữa tâm tính và hành vi. Sự hội nhập xuất hiện như một sự thống nhất trong phạm vi ý tưởng và hành động.
Dĩ nhiên, trong một nhân cách hội nhập tốt cũng có khả năng xảy ra những xung đột nội bộ. Giải pháp cho những xung đột vẫn là sự cố gắng thống nhất và hài hòa giữa các khuynh hướng xung đột này. Từ sự hội nhập các thành phần, các khuynh hướng tâm lý của con người, con người mới bước thêm một bước nữa là hội nhập với người khác. Việc hội nhập tốt sẽ có kết quả là các thành phần khác nhau của xã hội, của Giáo Hội được tổ chức thành một tổng thể hoạt động như một đơn vị.
Đến đây, hội nhập cá nhân, hội nhập xã hội, hội nhập Giáo Hội dẫn sự “hội nhập” người trưởng thành vào Chúa Kitô: toàn bộ cuộc sống của Kitô hữu được tích hợp vào những đức tính của Chúa Kitô (1 Tx 5, 23). Đời sống vì Chúa, được phát triển trong các tiềm năng của người Kitô hữu, mang đến một sự thống nhất những suy nghĩ,
tình cảm, ham muốn và hành động. Người Kitô hữu trưởng thành đã tự thanh luyện mình khỏi những khuynh hướng cảm xúc xấu. Và ở trong bất cứ cảnh hội nhập nào, người Kitô trưởng thành kiên định trong đức tin (Rm 11, 20), tránh xa cái ác và quay về với Chúa. Một khi “đã được hội nhập” vào Chúa Kitô, thì “Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20).
b- Luôn tha thứ cho nhau
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? “ Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.”” (Mt 18, 21-22). Phải luôn luôn tha thứ.
Luôn luôn tha thứ cho nhau cũng là dấu hiệu của người trưởng thành tâm linh. Được như vậy, người trưởng thành tâm linh xóa bỏ đi các chất độc của sự thù hận để tha thứ cho những ai làm tổn thương họ. Người trưởng thành tâm linh giải thoát bản thân và tha nhân khỏi những xiềng xích của việc không tha thứ.
c- Quan tâm đến người nghèo, người thiệt thòi, và người bị áp bức
“Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 17-19). Hầu như tất cả các truyền thống tôn giáo đều thúc đẩy chăm sóc cho những nhu cầu của những người kém may mắn. Khi chúng ta có cuộc sống hạnh phúc và bình an, hoặc khi chúng ta có cơ hội thành công hơn người khác, thì chớ quên người anh em bên cạnh đang trong cảnh lầm than cơ cực… trong cảnh của những người yếu thế. Người trưởng thành tâm linh luôn ý thức về những nhu cầu của người nghèo và sống theo tinh thần mà Chúa dạy qua đoạn Phúc âm thánh Luca kể trên. Người trưởng thành tâm linh hiểu rằng vì một xã hội lành mạnh, thì phải chăm sóc cho người yếu thế nhất ở giữa họ. Người trưởng thành tâm linh vừa tham gia xây dựng Giáo Hội của Chúa vừa tham gia vào cuộc đối thoại mang tính xây dựng với người khác, kém may mắn hơn mình.
Đến đây chúng ta bước qua một dấu hiệu cao hơn trong sự trưởng thành tâm linh. Trong sự trưởng thành này “mọi người” dấn thân một cách tận tâm và hoàn toàn cho Chúa, cho Giáo Hội của Ngài và cho sự cứu rỗi thế gian. Thật vậy, một đời sống vì Chúa, vì Giáo Hội của Ngài cách hoàn toàn chắc chắn đưa người trưởng thành ra khỏi một nhãn quan ích kỷ, tâm thức quy ngã. Đời sống như thế làm cho người trưởng thành ý thức rằng mình sống vì Chúa và vì mọi người nhiều hơn. Người trưởng thành tâm linh luôn có trong tâm thức của mình: toàn thể con người được hướng về cùng đích duy nhất là Thiên Chúa, chân lý tối cao và sự thiện tối cao: “Chúa của con, Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28).
3. Đối với Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, đối với Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài, người Kitô hữu trưởng thành có những dấu hiệu theo sau đây.
Trước hết, người trưởng thành tâm linh tự mình không thể nào đạt được sự trưởng thành, thể hiện qua những dấu hiệu trên, nếu không có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong chúng ta. Chúng ta bước đi tiến tới sự trưởng thành theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nghĩa là sống ngoan ngoãn, sống “…theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5, 16). Theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, người trưởng thành tâm linh phân biệt điều gì đẹp lòng Chúa nhất, khuyến khích họ “ am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho” (Cl 1, 9).
Chúa Thánh Thần hướng dẫn người trưởng thành tâm linh để đạt được dấu hiệu đối với Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài cách xứng hợp.
a- Đối với Thiên Chúa
Người trưởng thành tâm linh bày tỏ “niềm xác tín kiên quyết” (Rm 14, 5) hoặc “niềm xác tín sâu xa” (1 Tx 1, 5). Việc làm này tạo ra một loại bằng chứng về sự Hiện hữu của Thiên Chúa và sự Quan phòng của Người (Rm 4, 21). Do đó, người trưởng thành tâm linh đào sâu thêm, chặt chẽ hơn những mối tương quan của mình với Thiên Chúa và dần dần nhận thức được kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện nơi loài người.
Người trưởng thành tâm linh rất “ổn định” trong mối tương quan này. Người trưởng thành tâm linh dấn thân vì Chúa dưới tư cách là một “người lớn, chín chắn” và rất tự do, không giống như lời hứa của “đứa trẻ”, thường hay thay đổi và hối tiếc. Chỉ có người đã đạt đến sự trưởng thành tâm linh mới có khả năng “chết đi cho thế gian” bằng quyết tâm, điều đó ngụ ý từ bỏ các giá trị trần thế và bảo vệ chống lại cái ác, luôn hướng về Thiên Chúa trong Chúa Kitô: “Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6, 21). Muốn thực hiện được điều trên thì người trưởng thành tâm linh phải áp dụng Lời Chúa mỗi ngày trong mọi hoàn cảnh. Khi bạn bước từng bước theo Chúa, áp dụng lời Chúa vào trong đời sống thì bạn sẽ phát triển tâm linh.
b- Đối với Giáo Hội
Cuối cùng, dấu hiệu của sự trưởng thành Kitô giáo là sự “dấn thân trong Giáo Hội và trong thế giới”, nghĩa là khả năng vượt qua những giới hạn chật hẹp của “cái tôi” và bước vào trong một mối quan hệ rộng lớn hơn với những người khác. Người trưởng thành tâm linh thực hiện trong đức ái, trong phục vụ Giáo Hội và trong sự dấn thân vào thế giới để hoàn thiện thế giới.
Sự trưởng thành Kitô hữu không phải là ân sủng được sống một cách trừu tượng và thoát tục, nhưng đó là cuộc gặp gỡ của đời sống vì Chúa và sự dấn thân toàn tâm toàn lực. Trong Giáo Hội và thông qua Giáo Hội, Kitô hữu trưởng thành sống sự dấn thân thánh thiện và hiệp thông đức ái, biết cách chấp nhận ngay cả thiếu sót của chính Giáo Hội và cố gắng làm việc hết sức mình để Giáo Hội luôn giống Chúa Kitô, mẫu mực và đầu của Giáo Hội: “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu.” (Cl 1, 18).
Trong Giáo Hội, người trưởng thành tâm linh thể hiện cuộc sống chứng nhân của mình trong hoạt động tông đồ, trong đời sống đạo đức: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1, 22). Người trưởng thành tâm linh không thể giữ im lặng về những gì anh ta đã trải qua (Cv 4, 20), không thể không lặp lại lời mà anh ta đã nghe “hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4, 2). Và theo cách này, người trưởng thành tâm linh sống cuộc sống của Kitô hữu vừa với tư cách là một cá nhân chín chắn, vừa với tư cách của toàn thể Giáo hội. Dần dần, toàn thể Giáo Hội ý thức hơn về ý nghĩa của Tin mừng đối với sự cứu rỗi thế gian: các thành viên của Giáo Hội, trong đó có người trưởng thành tâm linh tiến đến việc “phục vụ” theo gương của Chúa Kitô: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45).
Cuối cùng, để trở thành một người lớn, hay trưởng thành tâm linh, không chỉ là có một kiến thức thần học suông, nhưng còn là hành động có trách nhiệm trong đức tin vào Chúa Kitô. Vì thế, người trưởng thành tâm linh phải tiến triển liên tục, trong sự hiệp nhất đức tin, trong nhiệm thể của Chúa Kitô, trong Giáo Hội, bằng cách cổ vũ lẫn nhau, bằng cách xây dựng và hỗ trợ lẫn nhau. Chúng ta cần phải đồng tâm nhất trí, hiệp nhất với nhau trong Chúa Kitô vì nếu một thành viên nào yếu kém trong Giáo Hội, thì chúng ta sẽ bù đắp cho sự yếu kém này.
Chính trong Giáo Hội mà mỗi người chúng ta có chỗ đứng của mình, mà mỗi người chúng ta sẽ đạt đến sự hiệp nhất trong đức tin, mà chúng ta sẽ trưởng thành và đạt đến tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô. . cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4, 13). Sự trưởng thành tâm linh này cho phép chúng ta phân biệt “cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12, 2), nhờ đó, chúng ta cùng nhau xây dựng Giáo Hội của Chúa cách tốt đẹp trong một xã hội có dấu hiệu thế tục hóa này.
Tóm lại, các dấu hiệu: sự tiết độ, kiểm soát tư tưởng và kiểm soát lời nói… là dấu hiệu xác nhận sự trưởng thành tâm linh thực sự. Nhưng lưu ý, chúng ta không phải là chủ nhân của những dấu hiệu này, nên chúng ta cần phải cầu nguyện và hiệp thông nhiều hơn với Chúa. Chúng ta hãy quỳ xuống trước mặt Chúa và cầu xin Ngài biến đổi chúng ta càng ngày càng trở nên giống Ngài. Chúa có những dấu hiệu trưởng thành tâm linh và Ngài hứa sẽ ban chúng cho chúng ta những dấu hiệu trưởng thành đó nếu chúng ta cầu xin Ngài và khao khát chúng bằng tất cả trái tim của chúng ta.
Nên giống Chúa Kitô là mục tiêu chính yếu của người Kitô hữu trưởng thành. Như Thánh Phaolô mô tả, nên giống Chúa Kitô là một cuộc hành trình liên tục kéo dài suốt đời: “Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Kitô Giêsu chiếm đoạt. Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Phil 3,12-14). Như thế, chúng ta phải luôn luôn bước đi, hướng tới sự hiểu biết sâu hơn về Chúa Kitô để giống Ngài, nhờ đó chúng ta nhận được phần thưởng của Thiên Chúa, chớ chúng ta không thể chấp nhận sự dừng lại, hoặc như thế là đã đủ rồi!
Bài viết này mong chia sẻ một phần rất nhỏ về một vài tính chất của sự trưởng thành tâm linh, dấu hiệu của sự trưởng thành tâm linh. Hi vọng có thể khai triển trong những bài viết sau về dấu hiệu của tình trạng chưa trưởng thành tâm linh và tiếp theo nữa.
Gm. Phêrô Huỳnh Văn Hai
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 124 (Tháng 5 & 6 năm 2021)